20:42:55 | 16/6/2011
Quản lý số lượng di tích nhiều nhất trong cả nước đồng thời Hà Nội cũng là địa phương đã thực hiện mạnh mẽ công tác đầu tư bảo tồn, tu bổ di tích gắn kết với việc phát triển văn hoá và du lịch. Phóng viên đã có cuộc trao đổi cùng Ts. Nguyễn Doãn Tuân, Trưởng ban quản lý di tích danh thắng Hà Nội xung quanh các vấn đề quản lý, tu bổ và phát huy các giá trị lịch sử văn hoá của hệ thống di tích tại Thủ đô.
Hà Nội mở rộng đã tiếp nhận thêm rất nhiều di tích từ Hà Tây cũ, Mê Linh, Hòa Bình. Ông đánh giá như thế nào về tình trạng các di tích trên địa bàn thành phố hiện nay?
Hà Nội sau khi hợp nhất, số lượng di tích đã tăng lên rất nhiều, đến nay đã có hơn 5000 di tích. Có thể nói Hà Nội là nơi có nhiều di tích nhất cả nước, bao gồm nhiều loại hình khác nhau như đình, đền, chùa, miếu mạo, thành quách… nằm rải rác trên địa bàn; và có những di chỉ nằm dưới lòng đất. Tuổi đời của di tích, di chỉ trải dài từ thời kỳ Phùng Nguyên, Đồng Đậu, Gò Mun, Đông Sơn đến thời kỳ Cách mạng.
Sự phong phú về loại hình cũng như niên đại văn hóa di tích kéo dài và có sự kế thừa là tài sản vô giá cho thế hệ mai sau. Có những ngôi đình, chùa có tuổi trên 200-300 năm đang bị xuống cấp nghiêm trọng do ảnh hưởng của thời gian, thời tiết, chiến tranh, tác động của con người. Một tỷ lệ không nhỏ di tích xuống cấp và hư hỏng nặng cần phải được tu bổ ngay. Đây không chỉ là vấn đề riêng của địa phương mà còn là vấn đề chung của toàn xã hội trong việc nâng cao nhận thức về bảo tồn, bảo quản di tích.
Vậy, Ban quản lý di tích đã có những giải pháp như thế nào?
Trước đây, một số quy định của Hà Nội, Hà Tây, Vĩnh Phúc về quản lý di sản có những điểm khác nhau do các tỉnh có những quy định riêng phù hợp với tỉnh mình cho nên khi hợp nhất thì phải thống nhất cách quản lý và các quy trình quản lý. Hiện nay Ban đã có những văn bản thống nhất phổ biến cho các quận, huyện về Quy trình xếp hạng di tích và quy trình về tu bổ tôn tạo. Thống nhất về tổ chức và quy trình từ trên xuống dưới đồng thời phải mở ra nhiều lớp tập huấn cho cán bộ xã, phường, người trông nom di tích. Quán triệt phổ biến Luật Di sản văn hóa và những quy định của thành phố về bảo tồn di tích, bảo tàng; những thay đổi và bổ sung của Luật Di sản văn hóa. Ban cũng đã đóng góp vào dự thảo sửa đổi Luật Di sản văn hóa cho phù hợp với thực tế.
Tuy nhiên, dù đã có nhiều cố gắng nhưng chất lượng quản lý di tích trên địa bàn Hà Nội vẫn chưa được như mong muốn. Lý do chính là do địa bàn quản lý rộng, di tích nhiều và nằm rải rác ở khắp nơi. Thêm vào đó là sự nhận thức về bảo tồn di sản không đồng đều, và có sự chênh lệch về nhận thức giữa nội thành và ngoại thành.
Cùng với việc đẩy mạnh tuyên truyền về văn hóa, bảo tồn di sản để nâng cao ý thức của cộng đồng về các giá trị của di sản văn hóa cần được bảo vệ và phát triển, Ban cũng đã góp phần mạnh mẽ vào việc đẩy mạnh công tác xã hội hóa việc bảo tồn, trùng tu di tích. Cùng với nguồn vốn ngân sách thì các nguồn vốn từ xã hội hoá đã đóng một phần rất quan trọng vào việc bảo tồn và tu bổ, tôn tạo di tích. Nhiều công trình đã được cộng đồng công đức để tu bổ và bảo quản hiện vật nên đã tránh được sự xuống cấp, như công trình bảo quản bảo tồn ở Chùa Láng- Hà Nội đã nhận được sự ủng hộ công đức của cộng đồng để bảo tồn và bảo quản hiện vật trong chùa được tốt nhất.
Thưa ông, một hiện thực gần đây đã được báo chí nhắc đến nhiều là việc làm mất đi các giá trị văn hóa – lịch sử của di tích do chất lượng chuyên môn của công tác tu bổ, tôn tạo không cao. Ban đã có cách nào để hạn chế tình trạng này?
Trong công tác bảo tồn di tích có những quy trình bắt buộc là đảm bảo giữ nguyên phần hiện vật gốc nhưng một số công trình không tôn trọng nguyên bản mà đã làm “méo mó”; “ râu ông nọ cắm cằm bà kia”. Tình trạng này không chỉ riêng có ở Hà Nội mà trong cả nước. Chẳng hạn: dự án bảo tồn di tích nhưng lại làm mái chùa, mái đình theo phong cách mới; đưa gạch tráng men hiện đại vào lát nền trong chùa. Đây cũng là vấn đề thể hiện tính hai mặt của công tác xã hội hóa việc bảo tồn, trùng tu di tích. Đó là khi người quản lý trực tiếp ở di tích “chiều” theo ý chủ quan của người công đức mà không hiểu về di tích và các nguyên tắc bảo tồn di tích. Đây cũng là vấn đề “nóng” gây bức xúc cho cộng đồng cũng như những người làm về văn hóa và bảo tồn di sản. Việc công đức phải đi kèm với thái độ tôn trọng giá trị văn hóa của di tích thì mới góp phần bảo vệ được các giá trị. Vì vậy, công tác tuyên truyền phổ biến các quy trình tu bổ tôn tạo di tích cần được đặt ngang tầm quan trọng với công tác tuyên truyền nâng cao nhận thức cho người dân về việc bảo vệ, duy trì phát triển văn hóa di tích và công tác vận động xã hội hoá việc tu bổ di tích.
Để các giữ gìn, phát huy các giá trị lịch sử văn hóa của các di tích, một trong những hướng đang được ngành Văn hoá - Thể thao – Du lịch thúc đẩy là hợp tác với du lịch. Tại Hà Nội, công tác này đã được triển khai đến mức nào, thưa ông?
Di tích là điểm đến của du lịch nhưng ở Hà Nội hiện nay chỉ có một số điểm di tích có sức hấp dẫn đối với du khách trong và ngoài nước đến tham quan tìm hiểu, nghiên cứu, học tập, sinh hoạt tín ngưỡng. Còn lại phần lớn thì di tích trên địa bàn chưa phát huy được lợi thế về thu hút du lịch. Nhìn chung, cảnh quan, môi trường, điều kiện của các di tích hiện nay chưa tương xứng với việc phát triển du lịch; không có tuyến du lịch gắn kết các điểm với nhau tạo nên các quần thể độc lập… nên không hấp dẫn du khách. Ở những di tích không tạo được nguồn thu từ du lịch và công tác tuyên truyền về xã hội hoá việc tu bổ di tích kém thì phần lớn di tích đó không được tu bổ thường xuyên, xuống cấp trầm trọng.
Công tác tuyên truyền nâng cao nhận thức cho cộng đồng về những giá trị văn hóa lịch sử truyền thống của di tích và có cách ứng xử tốt với các hoạt động văn hóa tín ngưỡng là điều kiện quan trọng đối với việc đầu tư cho công tác bảo quản bảo tồn di tích và phát triển du lịch gắn với di tích. Những việc làm đó đồng thời còn lan toả, tác động tích cực đến đời sống của cộng đồng trong vùng.
Xin cảm ơn ông!
Lưu Hiệp