10:43:01 | 6/10/2011
Với hiện trạng ô nhiễm môi trường tại các khu kinh tế và làng nghề ngày càng trở nên trầm trọng. Vấn đề hoàn thiện khung pháp lý chặt chẽ để thúc đẩy đầu tư cho hoạt động bảo vệ môi trường tại các khu kinh tế, làng nghề đã trở nên hết sức cấp thiết.
Việt Nam có khoảng 2.100 làng nghề, trong đó có 300 làng nghề truyền thống, tạo việc làm cho hơn 4 triệu lao động đem lại lợi ích không nhỏ về kinh tế - xã hội đối với nhiều địa phương, vùng nông thôn. Tuy nhiên, hiện trạng môi trường và việc thực thi chính sách, pháp luật về môi trường tại các khu kinh tế (KKT), làng nghề đang đặt ra những thách thức mới.
Đầu năm 2011, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã chuẩn bị báo cáo “Việc thực hiện chính sách, pháp luật về môi trường tại các khu kinh tế (KKT), làng nghề” phục vụ công tác giám sát của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
.jpg)
Bức tranh nhiều mảng “tối”
Theo báo cáo tình hình thực hiện chính sách, pháp luật về môi trường tại các KKT, khu công nghiệp và làng nghề của Ủy ban Thường vụ Quốc hội từ cuối năm 2010 đến đầu năm 2011, chất thải từ các làng nghề không nhiều nhưng việc thải bỏ không đúng cách có thể dẫn đến mất mỹ quan, văn hóa và gây ô nhiễm môi trường. Cùng đó, ô nhiễm tại các làng nghề ảnh hưởng lớn tới những người trực tiếp tham gia sản xuất và những người sống tại làng nghề đó. Các nguy cơ mà người lao động tiếp xúc cao: 95% người lao động có nguy cơ tiếp xúc với khói bụi, 85,9% tiếp xúc với nhiệt, 59,6% tiếp xúc với hóa chất... Bên cạnh đó, ô nhiễm môi trường làng nghề còn ảnh hưởng đến các vấn đề kinh tế-xã hội như làm tăng chi phí khám chữa bệnh, giảm năng suất lao động, mất ngày công lao động do nghỉ ốm đau, giảm sức thu hút du lịch…
Đến cuối tháng 9/2011, Đoàn Giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật về môi trường tại các khu kinh tế và làng nghề của Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã hoàn tất kế hoạch giám sát tại 15 Khu kinh tế ven biển và 48 làng nghề; làm việc với lãnh đạo các Bộ Tài nguyên và Môi trường, Kế hoạch và Đầu tư, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Xây dựng, các cơ quan hữu quan và 22 Ủy ban nhân dân các tỉnh và thành phố trực thuộc Trung ương. Từ thực tế, Đoàn Giám sát đưa ra các giải pháp kiến nghị nhằm đẩy mạnh việc thực hiện chính sách, pháp luật về môi trường tại các Khu công nghiệp và làng nghề trong phạm vi cả nước.
Luật không “chặt”
Theo thống kê của Đoàn Giám sát, đến thời điểm hiện nay đã có 57 văn bản quy phạm pháp luật liên quan trực tiếp đến Khu kinh tế và bảo vệ môi trường Khu kinh tế. UBND các tỉnh có Khu kinh tế ven biển đã ban hành 41văn bản hướng dẫn thi hành luật có liên quan đến Khu kinh tế.
Tuy hệ thống văn bản pháp luật về môi trường, các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về môi trường tương đối đầy đủ, nhưng việc ban hành các văn bản này còn chậm, còn thiếu các quy định quản lý môi trường đặc thù và một số quy định còn chồng chéo về thẩm quyền, trách nhiệm trong công tác quản lý, điều hành. Chẳng hạn Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 có quy định về Khu kinh tế, nhưng đến năm 2009 mới có Thông tư về "Quản lý và bảo vệ môi trường khu kinh tế, khu công nghệ cao và cụm công nghiệp". Hoặc như Nghị định 29/2008 ngày 14/3/2008 về Khu công nghiệp, khu chế xuất và kinh tế quy định Ban Quản lý Khu kinh tế có lực lượng thanh tra, nhưng Luật Thanh tra hiện hành không có quy định này…. Bên cạnh đó còn có nhiều văn bản riêng về quy hoạch, quản lý, bảo vệ môi trường làng nghề; các địa phương còn ban hành các văn bản liên quan đến phát triển bền vững của làng nghề. Nhưng nhiều quy định, đặc biệt là quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về môi trường không khả thi với làng nghề.
Ngân sách hạn hẹp
Việc đầu tư từ ngân sách chi thường xuyên cho sự nghiệp bảo vệ môi trường hiện nay (1%) cũng chưa thể đáp ứng được các nhu cầu cấp thiết. Theo đoàn giám sát, cần tăng cường giám sát việc phân bổ, quản lý và sử dụng ngân sách chi cho sự nghiệp môi trường. Mặc dù nguồn kinh phí còn ít ỏi, nhưng hầu hết các địa phương đều chưa phân định rõ nguồn chi cho đầu tư phát triển hạ tầng bảo vệ môi trường Khu kinh tế với chi sự nghiệp môi trường; chưa phân bổ hoặc phân bổ dàn trải, không đúng, không đủ nguồn chi sự nghiệp môi trường cho Ban Quản lý Khu kinh tế để thực hiện các hoạt động quan trắc môi trường, tuyên truyền phổ biến pháp luật…Chỉ một số ít địa phương bố trí nguồn chi này cho công tác quan trắc, nhưng cũng chỉ đủ để thực hiện quan trắc một đợt ở một số khu vực trong năm, không thực hiện được quan trắc định kỳ. Trong hai năm 2009 - 2010 các tỉnh Bình Định, Hà Tĩnh, Nghệ An, Khánh Hòa phân bổ chưa đầy 873 triệu từ nguồn chi 1% ngân sách môi trường cho các Khu kinh tế của địa phương.Đối với làng nghề, khoản chi này của các địa phương càng ít ỏi. Bởi vậy Đoàn Giám sát đã kiến nghị tăng cường giám sát việc phân bổ, quản lý, sử dụng ngân sách chi cho sự nghiệp môi trường.
Đỗ Ngọc