Biến đổi khí hậu: Đất ngập nước bất lợi

10:58:11 | 22/9/2011

Việt Nam là một trong 5 nước bị ảnh hưởng nặng của biến đổi khí hậu, theo Giáo Sư.Tiến sĩ Mai Trọng Nhuận, tác giả cuốn sách “Tổng quan hiện trạng đất ngập nước Việt Nam sau 15 năm thực hiện công ước Ramsar” thì Việt Nam cần bắt đầu từ việc có một quy hoạch phát triển bền vững đất ngập nước có tính đến các kịch bản của biến đổi khí hậu toàn cầu.

Từ năm 1989, Việt Nam là quốc gia thứ 50 trên thế giới tham gia Công ước Ramsar. Đây là công ước quốc tế về bảo tồn sớm nhất thế giới. Trong nhiều năm qua, Việt Nam đã có nhiều nỗ lực triển khai các hoạt động nghiên cứu, kiểm kê, xây dựng các công cụ và kỹ thuật khác nhau để bảo tồn, sử dụng, quản lý đất ngập nước (ĐNN) theo tinh thần của Công ước Ramsar.

Theo Bộ Tài nguyên – Môi trường, đất ngập nước ở Việt Nam có tổng diện tích khoảng hơn 10 triệu ha, trong đó đất ngập nước trồng lúa chiếm khoảng 4,1 triệu ha. Trong suốt những năm qua, diện tích đất ngập nước tự nhiên đã giảm đi, diện tích đất ngập nước nhân tạo tăng lên. Cụ thể là các khu rừng ngập mặn tự nhiên ven biển đã mất dần, thay vào đó là các đầm nuôi thủy sản, các công trình du lịch và một số ít diện tích trồng rừng. Diện tích rừng ngập mặn đã giảm 183.724ha trong 20 năm qua (từ năm 1995). Trong khi diện tích nuôi trồng thủy sản đã tăng lên 1,1 triệu ha năm 2003.

Diện tích đất ngập mặn ven biển năm 1982 là 494.000 ha, đến năm 2000 là 606.792 ha do mở rộng diện tích nuôi tôm. Năm 1976 diện tích trồng lúa ở ĐBSCL là 2.062.000 ha, đến năm 2004 tăng lên 3.815.000 ha. Tuy nhiên, theo thống kê của Viện khoa học Thủy lợi Miền Nam, diện tích bị xâm nhập mặn ĐBSCL đã lên tới 50% diện tích toàn vùng (khoảng 2 triệu ha).

Trong những năm gần đây, do tốc độ công nghiệp hóa, đô thị hóa và hiện đại hóa đất nước, một diện tích rất lớn đất ngập nước đã bị chuyển hóa sang mục đích sử dụng khác; tính chất, giá trị của đất ngập nước vì vậy bị mai một. Đồng thời, sự phát triển này đã làm cho môi trường VN nói chung, đất ngập nước nói riêng đang có chiều hướng xấu do chất thải công nghiệp, ô nhiễm dầu, sử dụng hóa chất bảo vệ thực vật, chất hữu cơ và các chất độc hại trong khai thác tài nguyên.

Đất ngập nước Việt Nam có giá trị rất lớn không chỉ về kinh tế, môi trường, đa dạng sinh học, văn hóa, lịch sử, đất ngập nước đóng vai trò hạn chế tai biến về lũ lụt, sóng thần. Theo thông lệ quốc tế, đất ngập nước đã trở thành bài toán rất lớn từ những năm 1971, thế giới đã nhìn nhận tầm quan trọng đến mức sống còn và ra công ước bảo vệ.

Tuy các giá trị lớn của đất ngập nước đem lại nhưng hiện nay Việt Nam vẫn chưa khai thác hết được ,một số vùng đất ngập nước đã khai thác quá tiềm năng ví dụ như các hoạt động đánh cá ven bờ làm mất khả năng phục hồi. Có vùng nuôi trồng thủy sản đã vượt quá khả năng hệ sinh thái (ví dụ như ở một số vịnh biển tỉnh Quảng Ninh…).Trong khi các giá trị bền vững khác chưa được khai thác như: du lịch, sinh thái, cảnh quan, giáo dục đào tạo, nghiên cứu…

Các hoạt động của con người đã tác động rất nhiều tới vùng đất ngập nước như: làm suy giảm diện tích, biến đổi khí hậu, làm giảm khả năng phòng tránh tai biến, ví dụ như đất hồ bị lấp đi khả năng trữ nước về mùa mưa và giữ nước cho mùa hè bị mất đi những chức năng môi trường, nước bị mất đi khí hậu sẽ bị biến đổi gây bất lợi, cảnh quan và sinh thái không còn. Ví như Hà Nội được coi là thành phố của hồ, tuy nhiên cho đến nay diện tích hồ bị thu hẹp nghiêm trọng. Do vậy những giá trị văn hóa, giá trị bảo tồn và sức hấp dẫn khách du lịch sẽ bị giảm đi. Các vịnh biển như Quảng Ninh, Nha Trang...bị khai thác thái quá mà không có những biện pháp bảo tồn và sử dụng bền vững.

Đỗ Ngọc