Đẩy mạnh khai thác tiềm năng của khu vực dịch vụ

09:40:52 | 20/3/2023

Khu vực dịch vụ đã và đang có những đóng góp hết sức quan trọng cho tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam, nhưng kết quả đạt được còn khiêm tốn so với các quốc gia khác.

Chưa xứng tầm

Theo một báo cáo mới công bố của Ngân hàng thế giới, trong thập kỷ qua, các ngành dịch vụ là khu vực lớn nhất của nền kinh tế Việt Nam. Quy mô khu vực dịch vụ tăng từ 40,7% GDP trong năm 2010 lên 44,6% GDP trong năm 2019. Trong quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế ở Việt Nam, tỷ lệ lao động làm việc trong các ngành dịch vụ tăng từ 19% năm 1991 lên 35,3% năm 2019, hấp thụ phần lớn lao động dịch chuyển ra khỏi ngành nông nghiệp và biến khu vực dịch vụ trở thành nguồn cung cấp việc làm đứng thứ hai trong cả nước, sau nông nghiệp.

Tuy nhiên, kết quả đạt được của khu vực dịch vụ tại Việt Nam chưa xứng tầm so với các quốc gia khác. Năng suất và việc làm ở khu vực dịch vụ của Việt Nam vẫn thấp hơn so với các quốc gia khác trong khu vực, có cơ cấu tương tự hoặc phát triển hơn. Ví dụ, năng suất lao động trong các lĩnh vực dịch vụ của Việt Nam (được đo bằng giá trị gia tăng trên mỗi lao động) tăng 34.3% trong giai đoạn từ năm 2011 – 2019. Mặc dù ở mức 5,000 đôla Mỹ (đôla không đổi) mỗi nhân công năm 2019, con số này vẫn thấp hơn nhiều so với các quốc gia như Ma-lay-xia (20,900 đôla Mỹ), Phi-líp-pin (9,300 đôla Mỹ) và In-đô-nê-xia (7,300 đôla Mỹ). Xuất khẩu dịch vụ có tay nghề cao, giàu kiến thức (được gọi là dịch vụ đổi mới toàn cầu) chỉ chiếm 9% tổng kim ngạch xuất khẩu dịch vụ. Chỉ 6.4% tổng số lao động trong ngành dịch vụ là làm việc ở nhóm này, bao gồm công nghệ thông tin, tài chính, và các dịch vu chuyên sâu vốn thuộc nhóm hiệu quả nhất của nền kinh tế

Đó là chưa kể đến quy mô của các công ty còn nhỏ, hạn chế đối với thương mại dịch vụ, áp dụng công nghệ thấp và ít liên kết liên ngành ảnh hưởng đến năng suất. Ngành dịch vụ của Việt Nam bị chi phối bởi các công ty quy mô nhỏ. Ngoài ra, Chỉ số hạn chế thương mại dịch vụ (STRI) của OECD năm 2021 đối với Việt Nam tương đối cao so với hầu hết các quốc gia mà Viêt Nam đang hướng tới (Singapore, Hàn Quốc, Malaysia), chủ yếu là do hạn chế đầu tư nước ngoài để cung cấp dịch vụ. Bên cạnh đó, theo khảo sát về áp dụng công nghệ ở cấp độ doanh nghiệp (Firm-Level Adoption of Technology - FAT), các công ty dịch vụ ở trình độ trung bình ở Việt Nam đều có khoảng cách khá lớn so với doanh nghiệp tương tự trên phạm vi toàn cầu trong việc áp dụng công nghệ. Mặt khác, các doanh nghiệp chế biến chế tạo của Việt Nam còn hạn chế trong việc sử dụng dịch vụ — giá trị của dịch vụ đầu vào trong nước chỉ chiếm 14%, trong đó chỉ có 1,6% các công ty chế biến chế tạo sử dụng dịch vụ mang tính đổi mới sáng tạo toàn cầu (ICT, dịch vụ chuyên nghiệp và dịch vụ tài chính).

Cải cách chính sách mở ra tiềm năng

Trong thời gian tới, các ngành dịch vụ có thể đóng vai trò chính trong hỗ trợ Việt Nam duy trì tăng trưởng năng suất một cách bền vững để vươn tới khát vọng trở thành nền kinh tế thu nhập cao vào năm 2045. Tất cả các nền kinh tế thu nhập cao đều có đặc trưng sở hữu một khu vực dịch vụ lớn, vừa là nơi thu hút việc làm lớn nhất vừa tạo giá trị gia tăng, đóng vai trò thiết yếu để nâng cao năng suất cho các nền kinh tế đó. Ngoài ra, dịch vụ còn đóng vai trò quan trọng nhằm nâng cấp mô hình phát triển của Việt Nam qua nâng cao giá trị gia tăng ở các ngành, lĩnh vực khác trong nền kinh tế.

Đánh giá của WB cho rằng, trước thực tế trên, Việt Nam có thể giảm hơn nữa những hạn chế về thương mại dịch vụ và sự tham gia của đầu tư nước ngoài. Chỉ số hạn chế thương mại dịch vụ (STRI) của OECD cho thấy những lĩnh vực dịch vụ “xương sống” - như viễn thông, kho vận (logistics), hàng không, dịch vụ pháp lý, ngân hàng, và bảo hiểm - vẫn phải đang đối mặt với nhiều rào cản hạn chế lớn và chưa có nhiều tiến triển trong việc loại bỏ hoặc hạ thấp những rào cản đó những năm gần đây. Ví dụ, vận tải hàng hóa vốn đầu tư nước ngoài bị hạn chế theo nhiều cách khác nhau, chẳng hạn trong lĩnh vực vận tải hàng hóa đường bộ và đường thủy nội địa (vốn sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài (FDI) tương ứng tối đa 51% và 49%). Trong thời gian tới, các cấp có thẩm quyền cần cân nhắc giảm rào cản để thu hút vốn FDI, vì công nghệ và đổi mới sáng tạo phụ thuộc vào khả năng tiếp cận tri thức, các mạng lưới, con người, hàng hóa và dịch vụ mà có thể lan tỏa tri thức đi khắp thế giới. Bên cạnh đó, tiếp tục thực hiện những cải cách môi trường kinh doanh để nâng cao cạnh tranh và khả năng tiếp cận tài chính cho các doanh nghiệp trong nước.

Mặt khác, theo đánh giá của WB, cần khuyến khích tiếp tục áp dụng công nghệ số trong từng doanh nghiệp để thúc đẩy đổi mới sáng tạo. Đánh giá mới đây của WB về các chính sách khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo (STI) của Việt Nam cho thấy, đã có sự quan tâm lớn hơn đến thúc đẩy đổi mới sáng tạo dựa trên nghiên cứu phát triển của nước ngoài. Chính phủ cũng đang nỗ lực “thúc đẩy hàng ngũ tiên phong về công nghệ” bằng cách hỗ trợ các trường đại học và viện nghiên cứu thay vì hỗ trợ các doanh nghiệp trong nước. Tuy nhiên, những chính sách trên chưa chú trọng nhiều đến các hình thức đổi mới sáng tạo không dựa trên nghiên cứu và phát triển, chẳng hạn áp dụng công nghệ.

Đặc biệt,Việt Nam cần tập trung vào việc tăng cường các kỹ năng của người lao động (nhất là các kỹ năng kỹ thuật số cơ bản) cũng như năng lực của các công ty và nhà quản lý; khai thác dịch vụ để thúc đẩy tăng trưởng cao hơn ở các ngành, lĩnh vực vực khác, đặc biệt là chế tạo chế biến.

Quỳnh Chi (Vietnam Business Forum)