10:16:19 | 15/5/2025
FTA chính là cơ hội để Việt Nam hội nhập sâu rộng với thế giới, nhưng việc khai thác các lợi thế của FTA lại phụ thuộc vào khả năng của từng doanh nghiệp. Bởi vậy, việc tìm hiểu kỹ các FTA để tìm được hướng đi của riêng mình là điều mà các doanh nghiệp cần chú trọng để tận dụng hiệu quả nhất những cơ hội từ FTA, góp phần phát triển bền vững nền kinh tế đất nước.
Quy mô thương mại ngày càng phát triển
Trong hơn hai thập kỷ qua, Việt Nam đã khẳng định vị thế là một trong những quốc gia tích cực hội nhập kinh tế toàn cầu. Tính đến năm 2025, tổng số các FTA Việt Nam đã ký kết và đang đàm phán lên tới 20 FTA, với 16 FTA đang thực thi, trong đó có các FTA thế hệ mới như CPTPP, EVFTA, UKVFTA và RCEP. Các hiệp định này đã mở ra thị trường rộng lớn với hơn 60 quốc gia và vùng lãnh thổ, chiếm khoáng 90% GDP toàn cầu.

Những con số minh chứng cho thành công của việc thực thi FTA là rất ấn tượng. Trong ba năm gần đây, Việt Nam liên tục nằm trong top 20 quốc gia có quy mô thương mại quốc tế lớn nhất thế giới, với tốc độ tăng trưởng xuất khẩu đạt khoảng 12,5% mỗi năm. Năm 2024, tổng kim ngạch xuất khẩu đạt mốc 786 tỷ USD, trong đó xuất khẩu vượt 405 tỷ USD, thặng dư thương mại gần 25 tỷ USD, ghi nhận xuất siêu năm thứ 9 liên tiếp. Nhờ đó, Việt Nam đứng thứ 17 trong 20 nền kinh tế có quy mô thương mại lớn nhất thế giới.
Đóng góp vào kết quả trên, kim ngạch xuất khẩu sang các thị trường đã ký FTA như EU, Canada, và các nước CPTPP đều ghi nhận tăng trưởng tích cực. Trong đó, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang EU trong năm 2024 đạt 52,1 tỷ USD, tăng 19,3% so với năm 2023; kim ngạch xuất khẩu sang Canada trong năm 2024 đạt khoảng 7,5 tỷ USD, tăng 22,7% so với năm 2023. Tỷ lệ tận dụng ưu đãi thuế quan theo FTA của doanh nghiệp Việt Nam đạt khoảng 37% trong năm 2024. Các FTA không chỉ giúp đa dạng hóa thị trường, giảm sự phụ thuộc vào một số thị trường truyền thống, mà còn tạo điều kiện thu hút nguồn vốn FDI chất lượng cao từ các đối tác lớn như Hàn Quốc, Nhật Bản và Singapore; tạo cơ hội để doanh nghiệp Việt Nam tham gia sâu hơn vào chuỗi cung ứng toàn cầu.
Theo ông Trịnh Minh Anh, Chánh văn phòng Ban chỉ đạo liên ngành hội nhập quốc tế về kinh tế, cho dù đạt được nhiều kết quả tích cực, nhưng việc khai thác các FTA vẫn chưa tương xứng với tiềm năng do nhiều doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa, vẫn thiếu thông tin, thiếu hiểu biết về các quy tắc xuất xứ, thủ tục ưu đãi thuế quan; các rào cản phi thuế ngày càng gia tăng như yêu cầu về tiêu chuẩn kỹ thuật, môi trường, lao động… đặt ra thách thức lớn cho khả năng đáp ứng của hàng Việt; tỷ lệ nội địa hóa trong một số ngành còn thấp, ảnh hưởng đến khả năng tận dụng ưu đãi FTA đã ký.
Dệt may là một trong những ngành có sự phát triển mạnh mẽ trong những năm qua nhờ thực hiện các FTA, tuy nhiên, theo ông Bạch Thăng Long – Phó Tổng Giám đốc Tổng Công ty May 10, hiện nay ngành dệt may đang gặp phải nhiều khó khăn, thách thức như việc thiếu đơn hàng, chuyển dịch chuỗi cung ứng. Các nhà nhập khẩu lớn từ Mỹ và EU có xu hướng dịch chuyển đơn hàng sang Bangladesh, Ấn Độ, Indonesia, do chi phí thấp và chính sách hỗ trợ tốt hơn. Các nhà bán lẻ quốc tế yêu cầu nghiêm ngặt hơn về truy xuất nguồn gốc, chứng nhận xanh, giảm thải carbon…Đặc biệt, việc Mỹ áp thuế đối ứng lên một số sản phẩm dệt may Việt Nam đến 46% gây sức ép lớn lên năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Tìm giải pháp bền vững và lâu dài
Bối cảnh thương mại toàn cầu hiện nay đang có nhiều biến động. Xung đột địa chính trị, biến đổi khí hậu, xu hướng bảo hộ gia tăng và đặc biệt là việc Hoa Kỳ có khả năng áp dụng một số biện pháp thuế đối ứng với hàng xuất khẩu từ Việt Nam đã và đang đặt ra những thách thức lớn. Tuy nhiên, việc tạm hoãn thuế 90 ngày và áp mức 10% trong thời gian đàm phán tạo cơ hội cho Việt Nam thương thảo, đa dạng hóa thị trường (EU, Nhật Bản, ASEAN) và tái cấu trúc chuỗi cung ứng để giảm thiểu rủi ro.
Là một trong những doanh nghiệp dệt may lâu đời và tiên phong, đối với May 10, ông Bạch Trăng Long cho biết, doanh nghiệp luôn ý thức rõ trách nhiệm và không ngừng đổi mới, nâng cao năng lực cạnh tranh để “vượt bão”. May 10 đã chuyển đổi số toàn diện, ứng dụng AI trong sản xuất, quản trị. Chuyển đổi xanh, đầu tư công nghệ tiết kiệm năng lượng, giảm phát thải, xây dựng các nhà máy đạt chuẩn xanh quốc tế. Đặc biệt, May 10 đã đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, trong đó đẩy mạnh các thị trường FTA cũng như tìm cách khai thác các thị trường ngách; phát triển thương hiệu nội địa, chuỗi bán lẻ thời trang.
Đối với các doanh nghiệp xuất khẩu nói chung, theo ông Trịnh Minh Anh, để đat được mục tiêu bền vững và lâu dài, cần phải hành động quyết liệt hơn để khai thác hiệu quả các FTA hiện có, mở rộng thị trường, giảm phụ thuộc vào một số thị trường truyền thống và thích nghi với những chuẩn mực thương mại ngày càng cao. Đối với ngành dệt may, theo ông Bạch Thăng Long, cần đẩy mạnh các chương trình kết nối doanh nghiệp với hệ thống phân phối toàn cầu, hỗ trợ xúc tiến ở các thị trường tiềm năng như Trung Đông, Châu Phi, Nam Mỹ.
“Doanh nghiệp Việt Nam cần nâng cao nhận thức và hiểu biết kỹ về FTA, cần nghiên cứu kỹ các quy định về thuế quan, quy tắc xuất xứ (C/O), tiêu chuẩn kỹ thuật, và các cam kết phi thương mại (lao động, môi trường, phát triển bền vững) trong từng FTA (như CPTPP, EVFTA, UKVFTA). Quan tâm và tham dự các hội thảo, khóa học do Bộ Công Thương, VCCI hoặc hiệp hội ngành hàng tổ chức để nắm bắt thông tin và cách thức tận dụng ưu đãi; Khai thác Cổng thông tin FTA của Bộ Công Thương (ftaportal.moit.gov.vn) để tra cứu biểu thuế, quy định, và hướng dẫn thực thi FTA; cập nhật thông tin cảnh báo sớm về các vụ việc phòng vệ thương mại từ Bộ Công Thương… Phối hợp chặt chẽ với cơ quan quản lý Nhà nước để được hỗ trợ thông tin về FTA và xử lý các vấn đề phát sinh trong quá trình thực thi các FTA”, ông Trịnh Minh Anh khuyến nghị.
Đặc biệt, cần tối ưu hóa quy tắc xuất xứ (C/O), đảm bảo sản phẩm đáp ứng quy tắc xuất xứ để hưởng ưu đãi thuế quan, như tỷ lệ nội địa hóa hoặc xuất xứ thuần túy theo quy định của từng FTA; liên kết với nhà cung cấp trong nước hoặc khu vực FTA để tăng tỷ lệ nguyên liệu nội khối, giảm phụ thuộc vào nguồn nhập khẩu ngoài khu vực.
Ngoài ra, theo nhiều chuyên gia kinh tế, Việt Nam cần nâng cao năng lực cạnh tranh thông qua cải thiện chất lượng sản phẩm; tập trung đầu tư vào công nghệ, đổi mới mẫu mã, và đáp ứng tiêu chuẩn kỹ thuật, vệ sinh an toàn thực phẩm của thị trường FTA (như tiêu chuẩn xanh của thị trường EU); tham gia các hiệp hội ngành hàng; phối hợp với các hiệp hội để nắm bắt thông tin thị trường, giải quyết khó khăn (như chi phí vận chuyển, rào cản kỹ thuật) và các vụ tranh chấp quốc tế; ứng phó với các vụ kiện phòng vệ thương mại. Tuân thủ cam kết phi thương mại, đáp ứng các yêu cầu về lao động, môi trường, và phát triển bền vững để tránh rủi ro pháp lý hoặc bị kiện thương mại.
Quỳnh Anh (Vietnam Business Forum)
từ ngày 18 – 19/12/2025
VCCI
từ 11/11/2025 đến 30/11/2025
VCCI