09:40:32 | 29/5/2025
Phần lớn doanh nghiệp Việt Nam chưa tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu do các doanh nghiệp FDI dẫn dắt. Số lượng doanh nghiệp trong nước tham gia vào chuỗi cung ứng của các tập đoàn đa quốc gia và doanh nghiệp FDI chỉ đạt khoảng 300 trên tổng số hơn 1.800 doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ, trong đó chủ yếu cung ứng hàng hóa và dịch vụ có giá trị gia tăng thấp hoặc đơn giản.
Chưa tạo được mối liên kết chặt chẽ
Theo TS.Trần Thị Hồng Minh, Viện trưởng Viện Nghiên cứu chính sách và chiến lược,- Ban chính sách, chiến lược Trung ương, nguyên nhân của tình trạng trên là do năng lực nội tại của phần lớn doanh nghiệp Việt Nam còn yếu. Năng lực sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ của phần lớn doanh nghiệp Việt Nam còn tương đối hạn chế, từ cạnh tranh về giá, chất lượng cho đến khả năng giao hàng đúng thời hạn, thực hiện đơn hàng lớn, tiếp cận kênh phân phối.

Ví dụ như trong ngành sản xuất ô tô, chỉ khoảng 20% linh kiện được sản xuất nội địa, còn lại là nhập khẩu 80%. Trong khi tại Thái Lan và Indonesia, có tới 90% linh kiện của họ được sản xuất ngay trong nước. DN FDI lớn tại Việt Nam là Toyota, dù đã tích cực đầu tư vào nội địa hoá tại Việt Nam, nhưng cũng chỉ có 13 nhà cung cấp là nhà cung cấp thuần Việt.
Bên cạnh đó, các nhà cung cấp trong nước, nhất là các DN công nghiệp hỗ trợ, thiếu các kênh chính thức để thu thập thông tin về chiến lược mua hàng của doanh nghiệp FDI, nên không tạo được các mối quan hệ kinh doanh. Khả năng tiếp nhận chuyển giao công nghệ của các doanh nghiệp trong nước còn hạn chế.
Đáng chú ý, theo TS. Trần Thị Hồng Minh, thể chế, chính sách thúc đẩy liên kết doanh nghiệp còn bất cập. Chính sách phát triển doanh nghiệp chưa tạo điều kiện thuận lợi nhất để doanh nghiệp Việt Nam, nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa đầu tư, nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh để tham gia các liên kết doanh nghiệp, hình thành chuỗi sản xuất, chuỗi cung ứng trong nước, khu vực và quốc tế.
Trong khi đó, Việt Nam còn thiếu chính sách đặc thù về thúc đẩy các hình thức liên kết doanh nghiệp, nhất là chính sách ưu đãi về thuế, tiếp cận vốn, bảo lãnh tín dụng, mặt bằng sản xuất kinh doanh theo mức độ tham gia liên kết chuỗi sản xuất, chuỗi cung ứng. Quy định hiện hành chưa đủ thuận lợi cho hoạt động tiếp cận các hình thức cấp vốn theo chuỗi giá trị…
Tuy còn nhiều khó khăn nhưng phải thừa nhận rằng, các DN Việt Nam đã có sự liên kết ngày càng đa dạng hơn, bao gồm hợp tác doanh nghiệp cùng ngành (liên kết ngang); hình thành chuỗi sản xuất, chuỗi cung ứng (liên kết dọc); đầu tư, góp vốn, mua bán, sáp nhập và hình thành các nhóm công ty, ký kết hợp tác chiến lược nhằm chia sẻ thị trường, thông tin, nghiên cứu và phát triển. Trong mối liên kết với doanh nghiệp nước ngoài, số lượng doanh nghiệp Việt Nam tham gia vào chuỗi cung ứng của các tập đoàn đa quốc gia có xu hướng tăng, dù ở vị trí thấp hay cao trong chuỗi. Liên kết doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp ngoài nhà nước có điều kiện thuận lợi để phát triển thông qua chủ trương cổ phần hóa và đa dạng hóa sở hữu doanh nghiệp nhà nước.
Đặc biệt, nhiều doanh nghiệp ngành CNHT đã gia nhập sâu vào chuỗi cung ứng toàn cầu với sản phẩm đa chi tiết hoặc giá trị gia tăng cao. Có thể kể đến Công ty TNHH CNS AMURA PRECISION, hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực gia công cơ khí và sản xuất linh kiện chính xác. CNS AMURA PRECISION chuyên sản xuất các khuôn mẫu, ép nhựa và gia công linh kiện chính xác, với các đối tác như Mitsuba M-Tech Vietnam, ITO Corporation và các thị trường xuất khẩu chính gồm Nhật Bản, EU, Mỹ, Úc và Đức.
Hay như Công ty TNHH Thiết kế chế tạo Nhật Minh - sản xuất và cung ứng dụng cụ kim loại (gồm mũi khoan, mảnh cắt, chuôi dao, dụng cụ đo, khoan tâm…) cho nhiều tập đoàn nước ngoài sản xuất sản phẩm đầu cuối như Mitsubishi, Okazaki, Fuji Seiko…
Tháo gỡ điểm nghẽn về thể chế, pháp luật
Trong một thế giới có nhiều diễn biến nhanh, phức tạp, khó lường như hiện nay, liên kết doanh nghiệp càng trở nền quan trọng hơn bởi liên kết doanh nghiệp giúp mở rộng và đa dạng hóa thị trường, kết nối và hiện thực hóa các mô hình kinh doanh mới, chia sẻ và nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực, giảm thiểu rủi ro và ứng phó hiệu quả với các diễn biến bất lợi, nhờ đó nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
TS. Trần Thị Hồng Minh cho rằng, để nâng cao năng lực sản xuất – kinh doanh để tham gia các hình thức liên kết doanh nghiệp, Việt Nam cần tháo gỡ điểm nghẽn về thể chế, pháp luật, môi trường kinh doanh. Cần quyết liệt cắt giảm, đơn giản hóa điều kiện kinh doanh và tối ưu hóa quy trình giải quyết thủ tục hành chính gắn với chuyển đổi số, ứng dụng công nghệ thông tin truyền thông hiện đại và các công nghệ điển hình của Cách mạng Công nghiệp lần thứ tư. Nâng cao mức độ bảo vệ quyền tài sản, hoàn thiện quy định về đăng ký quyền sở hữu và quyền sử dụng tài sản, đặc biệt về đất đai, công nghệ và sở hữu trí tuệ.
Bên cạnh đó, cần xây dựng, phát triển, hoàn thiện hạ tầng số hiện đại, đồng bộ, an ninh, an toàn, hiệu quả để thực hiện quản lý nhà nước trên môi trường số và thực hiện các mục tiêu cải cách thủ tục hành chính, cắt giảm chi phí tuân thủ cho các chủ thể kinh doanh.
Đặc biệt, cần hoàn thiện, nâng cao hiệu lực, hiệu quả chính sách hỗ trợ doanh nghiệp, trước hết là doanh nghiệp nhỏ và vừa trong nước. Đẩy mạnh thực chất và hiệu quả các hoạt động hỗ trợ nâng cao năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa, trọng tâm vào các doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo, hỗ trợ doanh nghiệp tham gia chuỗi liên kết, chuỗi giá trị, hỗ trợ doanh nghiệp chuyển đổi số, ứng dụng khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo. Cân nhắc tích cực việc điều chỉnh giảm thuế cho toàn bộ doanh nghiệp nhỏ và vừa.
“Cần thúc đẩy liên kết doanh nghiệp hình thành chuỗi sản xuất, chuỗi cung ứng bằng chính sách ưu đãi vượt trội về thuế, tiếp cận vốn, bảo lãnh tín dụng, mặt bằng kinh doanh theo mức độ tham gia liên kết. Điều chỉnh chính sách thu hút đầu tư nước ngoài theo hướng nâng cao điều kiện ràng buộc về tỷ lệ nội địa hóa và tỷ lệ sản phẩm, dịch vụ được cung cấp bởi các doanh nghiệp nhỏ và vừa của Việt Nam”, TS Trần Thị Hồng Minh chia sẻ.
Đặc biệt, cần thúc đẩy hình thành và phát triển các doanh nghiệp tư nhân Việt Nam quy mô lớn đóng vai trò liên kết, quy tụ, dẫn dắt doanh nghiệp nhỏ và vừa trong nước ở một số ngành, lĩnh vực có thể đem lại vị thế quan trọng của quốc gia trong chuỗi cung ứng, chuỗi giá trị toàn cầu. Trước mắt, cần thúc đẩy phát triển thực chất đối với công nghiệp bán dẫn, điện tử tiên tiến, phát triển phần mềm và trí tuệ nhân tạo, nông nghiệp, công nghệ xanh và năng lượng tái tạo, các dịch vụ có tính kết nối (logistics, ICT) và hạ tầng thông minh. Ưu tiên mua sắm công đối với sản phẩm, dịch vụ của các tập đoàn kinh tế tư nhân Việt Nam, tạo điều kiện thuận lợi cho các tập đoàn kinh tế tư nhân tham gia thực hiện các dự án đầu tư công. Xây dựng cơ chế chia sẻ dữ liệu, giúp doanh nghiệp dễ dàng truy cập thông tin thị trường, xu hướng ngành và cơ hội hợp tác. Củng cố, đổi mới mô hình cụm liên kết ngành giữa các doanh nghiệp khu vực tư nhân, doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp FDI theo chuỗi giá trị.
Lan Anh (Vietnam Business Forum)
từ ngày 18 – 19/12/2025
VCCI
từ 11/11/2025 đến 30/11/2025
VCCI