10:35:29 | 14/10/2025
Trải qua gần bốn thập niên đổi mới, đội ngũ doanh nhân Việt Nam đã không ngừng lớn mạnh, trở thành lực lượng tiên phong trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Họ không chỉ kiến tạo của cải vật chất mà còn định hình giá trị mới cho nền kinh tế, góp phần khẳng định vị thế Việt Nam trên bản đồ kinh tế toàn cầu.
Trụ cột trong phát triển kinh tế và hội nhập
Từ sau công cuộc Đổi Mới năm 1986, doanh nhân Việt Nam đã dần khẳng định vai trò không thể thiếu trong nền kinh tế. Từ những xưởng sản xuất nhỏ, doanh nghiệp tư nhân đã trở thành động lực tăng trưởng, góp phần tạo việc làm, đóng góp ngân sách và thúc đẩy xuất khẩu. Hiện Việt Nam có hơn 970.000 doanh nghiệp đang hoạt động, trong đó khu vực tư nhân đóng góp khoảng 60% GDP và chiếm tới 85% tổng số việc làm trên toàn quốc.

Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu biến động, các doanh nhân Việt vẫn kiên định đổi mới và thích ứng linh hoạt. Họ không chỉ mở rộng sản xuất, đầu tư vào công nghệ cao, năng lượng tái tạo, bán dẫn, mà còn tiên phong trong các lĩnh vực kinh tế số, thương mại điện tử, logistics và xuất khẩu dịch vụ. Nhiều thương hiệu Việt đã ghi dấu ở thị trường quốc tế như Vingroup, FPT, Viettel, Vinamilk, Thaco, Hòa Phát, Masan,...
Điều đáng ghi nhận là tinh thần “vì cộng đồng” ngày càng lan tỏa sâu sắc. Khi thiên tai, dịch bệnh hay biến động xã hội xảy ra, các doanh nghiệp không đứng ngoài cuộc. Họ đóng góp quỹ xã hội, đầu tư vào giáo dục, khởi nghiệp, y tế, và nhiều sáng kiến vì môi trường. “Trách nhiệm xã hội doanh nghiệp đã không còn là một sự cam kết tự nguyện mà chính là một yêu cầu tất yếu và tiên quyết cho sự cạnh tranh và phát triển bền vững của doanh nghiệp trong bối cảnh kinh tế hiện nay,” bà Phạm Chi Lan, chuyên gia kinh tế nhấn mạnh.
Những đóng góp này không chỉ thúc đẩy tăng trưởng mà còn tạo dựng niềm tin xã hội, giúp hình ảnh doanh nhân Việt Nam chuyển mình - từ người kinh doanh đơn thuần trở thành người đồng hành cùng sự phát triển quốc gia.
Doanh nhân thời đại mới - Đổi mới, sáng tạo và khát vọng vươn xa
Bước vào kỷ nguyên chuyển đổi số và hội nhập sâu rộng, doanh nhân Việt Nam đối diện với những cơ hội và thách thức song hành. Kinh tế Việt Nam năm 2024 tăng trưởng 7,09%, và dự báo năm 2025 sẽ tăng trưởng cao hơn, trong đó khu vực tư nhân được kỳ vọng trở thành động lực chủ lực.
Trong bối cảnh đó, lớp doanh nhân trẻ và doanh nghiệp thế hệ mới đang hình thành một diện mạo khác: Năng động, sáng tạo, hội nhập và đề cao phát triển bền vững. Họ không chỉ hướng tới lợi nhuận, mà còn chú trọng tới giá trị dài hạn - đổi mới công nghệ, phát triển xanh, chuỗi cung ứng tuần hoàn và sản phẩm thân thiện với môi trường. Các doanh nghiệp như VinFast, TH, Vinamilk, Phenikaa, Dệt may Thành Công, VNG, Dat Bike,… là những ví dụ điển hình của thế hệ doanh nghiệp mới, kiên định với mục tiêu phát triển bền vững và đổi mới sáng tạo.
Đáng chú ý, làn sóng chuyển đổi số đang thúc đẩy năng lực cạnh tranh. Hàng loạt doanh nghiệp áp dụng trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn và tự động hóa trong sản xuất, quản trị, marketing. Điều này không chỉ giúp tiết kiệm chi phí mà còn nâng cao hiệu quả, tính minh bạch và khả năng ra quyết định dựa trên dữ liệu. FPT, Viettel và VNPT là những doanh nghiệp tiên phong trong chuyển đổi số quốc gia, mở rộng ra thị trường khu vực và toàn cầu.
Tuy nhiên, hành trình đổi mới ấy không dễ dàng. Phần lớn doanh nghiệp Việt vẫn ở quy mô vừa và nhỏ, gặp khó trong tiếp cận vốn, nhân lực chất lượng cao và thị trường quốc tế. Dù vậy, tinh thần dấn thân của doanh nhân Việt vẫn là điểm tựa mạnh mẽ. Họ học hỏi nhanh, kết nối sâu với các mạng lưới quốc tế và không ngừng khẳng định bản lĩnh “người Việt vươn xa”. Một số doanh nghiệp Việt đã trở thành đối tác trong chuỗi cung ứng của các tập đoàn toàn cầu, như Thaco Auto, Dệt May Việt Tiến, và Minh Phú Seafood, tham gia sâu vào lĩnh vực công nghệ cao, năng lượng tái tạo và xuất khẩu chế biến.
Bên cạnh khát vọng kinh doanh, nhiều doanh nhân thế hệ mới coi đóng góp cho xã hội là trách nhiệm và sứ mệnh. Các chương trình khởi nghiệp cộng đồng, quỹ học bổng, hoạt động môi trường, chăm sóc trẻ em và người yếu thế đang được triển khai sâu rộng.
Những nỗ lực đó cho thấy doanh nhân Việt đang dịch chuyển sang tầm nhìn dài hạn: Phát triển dựa trên đổi mới sáng tạo, đạo đức kinh doanh và trách nhiệm xã hội. Đây cũng là nền tảng giúp Việt Nam thực hiện mục tiêu trở thành quốc gia có thu nhập cao vào năm 2045, với khu vực tư nhân thực sự là động lực then chốt của nền kinh tế.
Tận dụng lợi thế, vượt qua thách thức thuế quan, xây dựng ngành dệt may bền vững Ông Trương Văn Cẩm Phó Chủ tịch thường trực kiêm Tổng thư ký Hiệp hội Dệt may Việt Nam (VITAS) 9 tháng đầu năm 2025, xuất khẩu dệt may ước tính mang về 34,7 tỷ USD, tăng 7,7% so với cùng kỳ, tăng mạnh ở các thị trường lớn như Mỹ 11,8%, EU tăng khoảng 12,4%; Nhật Bản tăng 7,8%; Trung Quốc tăng 9,9%. Riêng khu vực thị trường EU, một số thị trường tăng khá cao như Hà Lan tăng hơn 10,4%; Đức tăng hơn 17,5%,... Ở chiều nhập khẩu, chúng ta đang nhập nguyên phụ liệu từ 30 quốc gia, trong đó Trung Quốc vẫn chiếm tỷ trọng lớn nhất với 59% tổng kim ngạch. Đáng chú ý, nhập khẩu từ Mỹ tăng gần 57%, chiếm 7,6%. Khi Mỹ công bố thuế đối ứng, doanh nghiệp ta đã tranh thủ đẩy mạnh xuất khẩu, nhưng rõ ràng mức thuế 20% cho hàng Việt Nam và 40% nếu coi là chuyển tải sẽ tạo ra nhiều khó khăn như chi phí tăng, lợi nhuận giảm, và ảnh hưởng đến nguồn lực dành cho cải thiện đời sống người lao động, số hóa, xanh hóa sản xuất. Tuy nhiên, chúng ta vẫn có lợi thế nhất định so với 10 đối thủ cạnh tranh trực tiếp xuất khẩu dệt may vào Mỹ, thuế Mỹ áp cho Trung Quốc là 30%, cho Ấn Độ tới 50%, Mexico 25%. Việt Nam ở mức 20% tương đương Bangladesh, chỉ nhỉnh hơn Campuchia, Indonesia và Pakistan (19%), và bất lợi hơn một số nước như EU hay Thổ Nhĩ Kỳ cùng 15% và Honduras 10%. Thách thức lớn nhất hiện nay là chi phí vận chuyển tăng, và nếu giá hàng may mặc toàn cầu tăng cao, nhu cầu tiêu dùng của Mỹ có thể giảm, do đó cần tập trung đàm phán để duy trì giá xuất khẩu ở mức hợp lý. Về lâu dài, giải pháp then chốt là đa dạng hóa cả xuất khẩu và nhập khẩu. Xuất khẩu cần khai thác thêm các thị trường tiềm năng như EU, Anh, Nga, CPTPP và ASEAN; còn nhập khẩu phải tìm thêm nguồn cung từ Đài Loan (Trung Quốc), Mỹ, Hàn Quốc,… Quan trọng hơn, Việt Nam phải phát triển công nghiệp phụ trợ, sản xuất vải và phụ liệu trong nước; đồng thời, có thể tính đến việc đầu tư ra nước ngoài như tại Pakistan, Ai Cập,… để tận dụng lợi thế. Chúng ta cần tiếp tục triển khai mạnh mẽ các chương trình xúc tiến thương mại quốc gia, với sự hỗ trợ từ Bộ Công Thương và mạng lưới tham tán thương mại. Phối hợp để thu hút những nhà đầu tư có tiềm lực về vốn và công nghệ vào Việt Nam. Chính phủ đã ban hành Nghị định 205/2025/NĐ-CP ngày 14/7/2025 sủa đổi, bổ sung một số Điều của Nghị định 111/2015/NĐ-CP khuyến khích phát triển công nghiệp hỗ trợ và Bộ Công Thương cũng đang gấp rút hoàn thiện dự thảo Luật Phát triển công nghiệp trọng điểm. Đây là những bước đi quan trọng, tạo hành lang pháp lý và động lực để ngành dệt may phát triển bền vững trong thời gian tới.
Nhiều yếu tố hỗ trợ doanh nghiệp tư nhân phát triển Ông Nguyễn Vân Phó Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ TP.Hà Nội (HANSIBA) - Phó Chủ tịch HĐQT Công ty CP Tập đoàn N&G (N&G Group) Sau 40 năm Đổi mới, Đảng, Nhà nước, Chính phủ Việt Nam rất quan tâm tới những khó khăn của khu vực kinh tế tư nhân. Tuy nhiên, nhìn vào cơ cấu khối doanh nghiệp kinh tế tư nhân có thể nhận ra, đa phần là các doanh nghiệp nhỏ và vừa, (chiếm tới 98%). Nhiều doanh nghiệp gặp khó khăn khi tiếp cận đổi mới khoa học công nghệ, nâng cao năng lực sản xuất, chưa biết định hướng xuất khẩu, tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu. Chưa kể những khó khăn khác liên quan tới nguồn vốn, đất đai, hạ tầng cũng tạo rào cản đối với sự phát triển của khối doanh nghiệp tư nhân. Riêng đối với các doanh nghiệp tư nhân trong lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ, bên cạnh những vấn đề nêu trên, họ phải còn đối mặt với khó khăn có tính đặc thù khác, như máy móc chưa hiện đại, thiếu lao động trình độ cao. Dù vậy, doanh nghiệp tư nhân Việt Nam đang đứng trước nhiều cơ hội khi nền kinh tế đang trên đà phát triển, thị trường nội địa có sức mua lớn với hơn 100 triệu dân. Việt Nam đã và đang tham gia ký kết nhiều FTA song phương và đa phương với nhiều nền kinh tế, nhiều quốc gia trên thế giới. Bên cạnh đó, việc Việt Nam là điểm đến đầu tư của các tập đoàn đa quốc gia đã mang đến cho các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ cơ hội lớn. Đặc biệt, những chỉ đạo, định hướng, giải pháp quan trọng tại Nghị quyết 68 về phát triển kinh tế tư nhân, Nghị quyết 57 về đổi mới sáng tạo và công nghệ,... chính là những điều cộng đồng doanh nghiệp rất cần lúc này. Những quan điểm chỉ đạo, mục tiêu trong các nghị quyết sẽ trở thành kim chỉ nam cho các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam. Cùng với đó, với cuộc cách mạng tinh gọn bộ máy, sắp xếp địa giới hành chính được thực hiện quyết liệt, doanh nghiệp được thụ hưởng những cơ chế, chính sách đáp ứng nhu cầu cụ thể, thiết thực. Điển hình là các chính sách hỗ trợ đội ngũ doanh nghiệp tư nhân tiếp cận nguồn vốn, hạ tầng, thúc đẩy ứng dụng khoa học công nghệ, chuyển đổi số,… một cách “công bằng” như với những chủ thể kinh tế khác. Điều đó góp phần giải quyết những khó khăn thời gian qua và hun đúc mạnh hơn nữa tinh thần khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo, nâng cao năng lực sản xuất cho doanh nghiệp.
Nỗ lực tạo ra một hệ sinh thái thanh toán liền mạch và an toàn Ông Vũ Ngọc Giám đốc điều hành, Công ty Cổ phần 9Pay Năm 2025 là một năm đầy thử thách khi kinh tế toàn cầu gặp nhiều biến động, tác động đến hoạt động của không ít doanh nghiệp Việt Nam, nhưng bức tranh kinh tế vĩ mô trong nước vẫn cho thấy những tín hiệu tích cực. Việt Nam đang triển khai nhiều nhiệm vụ và giải pháp để hướng tới mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2025 đạt 8,3 - 8,5%. Đặc biệt, chiến lược đổi mới và phát triển kinh tế số của Chính phủ được xem là “kim chỉ nam”, mở ra nhiều cơ hội vàng cho sự phục hồi và bứt phá của nền kinh tế. Một quyết sách mang tính bước ngoặt là Nghị quyết 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân. Đây được xem là đột phá trong tư duy và hoạch định chính sách, tạo nền tảng cho chuyển đổi số và phát triển hạ tầng tài chính. Song song đó, chiến lược đổi mới sáng tạo và việc thành lập các Trung tâm Tài chính Quốc tế tại TP.Hồ Chí Minh và Đà Nẵng mở ra không gian tiềm năng cho doanh nghiệp, đặc biệt trong lĩnh vực công nghệ và tài chính. Những công ty Fintech như 9Pay nhờ vậy được tạo điều kiện về thuế, chi phí R&D, tiếp cận nguồn vốn, tài nguyên, từ đó có thêm nguồn lực để nghiên cứu thêm giải pháp mới, tăng hàm lượng công nghệ trong các sản phẩm tài chính, đem lại giá trị cho các doanh nghiệp, người tiêu dùng cá nhân, đồng thời khuyến khích cạnh tranh lành mạnh và đổi mới sáng tạo. Chúng tôi tin rằng sự phát triển bền vững của kinh tế số không thể thiếu sự tham gia của doanh nghiệp vừa, nhỏ, siêu nhỏ (nano SME) và hộ kinh doanh cá thể - những “tế bào” quan trọng của nền kinh tế. Đó là lý do chúng tôi không ngừng sáng tạo, đổi mới tư duy và các sản phẩm của mình, cung ứng một giải pháp thanh toán số toàn diện. Với doanh nghiệp SME trong và ngoài nước, 9Pay cung cấp giải pháp cổng thanh toán, dịch vụ hỗ trợ thu hộ - chi hộ giúp doanh nghiệp và khách hàng của doanh nghiệp nhận - chuyển tiền nhanh chóng. Với các nano SME và hộ kinh doanh cá thể, giải pháp Loa TingTing giúp quản lý tài chính dễ dàng, hỗ trợ các đơn vị bắt nhịp chuyển đổi số với bộ sản phẩm loa thông báo chuyển khoản, hóa đơn điện tử, chữ ký số, và phần mềm bán hàng. Bằng cách tạo ra một hệ sinh thái thanh toán liền mạch và an toàn, 9Pay đang góp phần đem tài chính số đến mọi ngóc ngách của nền kinh tế, biến những cơ hội từ Nghị quyết 68 thành giá trị thực tiễn cho cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam. Chúng tôi tin rằng, với tinh thần đổi mới không ngừng, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ tiếp tục là động lực bứt phá, đưa nền kinh tế Việt Nam đạt được những mục tiêu tăng trưởng đầy tham vọng trong tương lai.
Doanh nghiệp ưu tiên cơ sở xanh và hợp đồng thuê linh hoạt tại Việt Nam John Campbell Giám đốc Bộ phận Dịch vụ Công nghiệp, Savills Việt Nam Tính linh hoạt và khả năng tiếp cận chiến lược đã trở thành những tiêu chí then chốt trong việc lựa chọn địa điểm. Nhiều doanh nghiệp đang mở rộng sang các tỉnh như Tây Ninh, Quảng Ninh và Hưng Yên, thay vì chỉ tập trung vào các trung tâm truyền thống như Bình Dương hay Bắc Ninh. Bên cạnh đó, xu hướng xây dựng hai trung tâm phân phối - một ở miền Bắc phục vụ thị trường Trung Quốc và một ở miền Nam hướng tới ASEAN ngày càng trở nên phổ biến. Đồng thời, nhu cầu thuê ngắn hạn và linh hoạt đang tăng mạnh, đặc biệt trong các lĩnh vực như thương mại điện tử, giao hàng chặng cuối (last-mile delivery) và logistics bên thứ ba (3PL). Các doanh nghiệp mới đến từ Trung Quốc, Hàn Quốc và châu Âu cũng ưu tiên hình thức thuê này để thử nghiệm thị trường. Ngược lại, các tập đoàn đa quốc gia và nhà sản xuất lớn vẫn ưu tiên các hợp đồng thuê dài hạn hoặc mô hình xây dựng theo yêu cầu (build-to-suit) nhằm đảm bảo mặt bằng và kiểm soát chi phí hiệu quả. Một ví dụ điển hình là dự án Logicross Nam Thuận tại Tây Ninh với các kho xây sẵn tiêu chuẩn cao, được thiết kế chiến lược để đáp ứng nhu cầu thuê quy mô lớn của các doanh nghiệp thương mại điện tử và giao hàng nhanh. Mặc dù giá thuê cơ bản tại Việt Nam vẫn ở mức cạnh tranh, nhiều bên thuê hiện nay chú trọng hơn vào việc đánh giá tổng chi phí sở hữu (TCO – total cost of ownership), bao gồm phí dịch vụ, tiện ích, bảo trì và chi phí giao hàng trong bối cảnh tắc nghẽn giao thông – yếu tố then chốt đối với kho lạnh tiêu tốn nhiều năng lượng. Ngoài yếu tố chi phí, các tiêu chuẩn ESG và chứng nhận công trình xanh như LEED và EDGE đang ngày càng mang tính quyết định trong lựa chọn thuê mặt bằng. Nhiều tập đoàn đa quốc gia và nhà bán lẻ lớn hiện yêu cầu các cơ sở có chứng nhận xanh, và những yếu tố như năng lượng mặt trời, hệ thống chiếu sáng LED, hay hệ thống tái chế nước đang trở thành lợi thế cạnh tranh rõ rệt. Khi thị trường toàn cầu dần ổn định, Việt Nam tiếp tục thu hút mạnh mẽ sự quan tâm của các nhà đầu tư quốc tế không chỉ nhờ lợi thế về chi phí và vị trí chiến lược, mà còn nhờ sự sẵn có của các cơ sở hiện đại, hiệu quả, giúp doanh nghiệp kiểm soát chi phí tốt hơn trong dài hạn.
Phát triển bền vững - Hướng đi tất yếu cho tương lai thịnh vượng của doanh nghiệp và xã hội Binu Jacob Tổng Giám đốc Nestlé Việt Nam, Đồng Chủ tịch Hội đồng Doanh nghiệp vì sự Phát triển bền vững Việt Nam (VBCSD) Phát triển bền vững không còn là một lựa chọn, mà là hướng đi tất yếu để đảm bảo tương lai thịnh vượng của doanh nghiệp và xã hội. Nestlé Việt Nam kiên định với triết lý “tạo giá trị chung” - phát triển doanh nghiệp song song với việc mang lại lợi ích cho con người, cộng đồng và hành tinh. Chúng tôi đang từng bước chuyển đổi toàn bộ chuỗi giá trị theo hướng giảm phát thải carbon, thúc đẩy kinh tế tuần hoàn và bảo vệ tài nguyên thiên nhiên. Trong lĩnh vực nông nghiệp, sáng kiến NESCAFÉ Plan đã được triển khai hơn một thập niên, giúp hàng chục nghìn nông hộ Việt Nam áp dụng mô hình canh tác tái sinh, giảm sử dụng nước, phân bón hóa học và phát thải khí nhà kính, đồng thời nâng cao năng suất và thu nhập. Đây là minh chứng rõ ràng cho cam kết lâu dài của Nestlé trong việc kiến tạo một hệ thống thực phẩm tái sinh, nơi mỗi sản phẩm được tạo ra đều góp phần tích cực cho môi trường và con người. Song song với đó, chương trình Nestlé Needs YOUth tiếp tục được mở rộng, nhằm trang bị kỹ năng và tư duy đổi mới cho thế hệ trẻ Việt Nam trong thời kỳ số hóa. Chỉ riêng năm 2024–2025, hơn 25.000 thanh niên đã được đào tạo, tập huấn và hướng nghiệp thông qua các hoạt động của chương trình. Mục tiêu của chúng tôi là tạo tác động tích cực đến 100.000 thanh niên Việt Nam vào năm 2030, góp phần xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao cho tương lai. Chúng tôi tin rằng bền vững và lợi nhuận không tách rời, mà cùng song hành trong một phương trình phát triển. Doanh nghiệp chỉ có thể tăng trưởng bền vững khi xã hội và môi trường cùng tiến bộ. Với niềm tin ấy, Nestlé Việt Nam sẽ tiếp tục đầu tư vào công nghệ xanh, chuyển đổi số và đổi mới sáng tạo để góp phần xây dựng một Việt Nam xanh, thịnh vượng và bao trùm. |
Nguồn: Vietnam Business Forum
từ ngày 18 – 19/12/2025
VCCI