Bứt phá từ kinh tế số đòi hỏi hệ thống pháp lý linh hoạt và hiện đại

09:55:55 | 1/12/2025

Kinh tế số không chỉ là việc áp dụng công nghệ vào các mô hình kinh doanh truyền thống, mà là quá trình chuyển đổi toàn diện từ thương mại điện tử, thanh toán số, logistics thông minh, dịch vụ số, đến nền tảng dữ liệu, điện toán đám mây và trí tuệ nhân tạo. Việt Nam đang đứng trước cơ hội lớn để trở thành một trong những nền kinh tế số năng động của khu vực.

Tốc độ phát triển nhanh

Hiện Việt Nam đang sở hữu hạ tầng số phát triển nhanh, với tốc độ internet di động nằm trong nhóm dẫn đầu thế giới, mạng 5G mở rộng tới 90% dân số và 45 trung tâm dữ liệu đang vận hành. Đặc biệt, lực lượng nhân lực số trên 80.000 người tốt nghiệp mỗi năm cũng là nguồn lực quan trọng để mở rộng không gian kinh tế số.

Thực hiện quan điểm của Đảng và Chính phủ, đặc biệt là Nghị quyết số 57 của Bộ Chính trị về đột phá trong khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, Quyết định 411 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược phát triển kinh tế số và xã hội số, Việt Nam phấn đấu để kinh tế số đóng góp 20% GDP trong năm nay và 30% vào năm 2030. Đây là mục tiêu đầy khát vọng, đòi hỏi sự vào cuộc đồng bộ của các cấp, các ngành và cộng đồng doanh nghiệp.

Theo Nhóm công tác Kinh tế số - Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam - VBF, định hướng về chuyển đổi số của Đảng và Nhà nước Việt Nam, đặc biệt là Nghị quyết 57 của Bộ Chính trị sẽ giúp Việt Nam bứt phá trong cuộc đua về công nghệ và ghi tên mình vào bản đồ công nghệ cao thế giới. Sự tăng trưởng của lĩnh vực này trong thời gian vừa qua là rất đáng kinh ngạc và tất cả mọi chỉ số đều cho thấy tiềm năng của nền kinh tế số Việt Nam còn rất lớn. Hơn nữa, một nền kinh tế số vững mạnh đã được chứng minh là thúc đẩy sự phát triển bền vững và tăng trưởng xanh.

Theo ông Nguyễn Phú Tiến, Phó Vụ trưởng Vụ Kinh tế số và xã hội số, Bộ Khoa học và Công nghệ, phát triển của kinh tế số là mục tiêu chiến lược quốc gia nhằm tạo ra mô hình tăng trưởng mới, dựa trên dữ liệu và công nghệ số. Để hiện thực hóa mục tiêu này, cần có một chuỗi hành động đồng bộ về khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo phải tạo ra xung lực cho chuyển đổi số.

Để đạt mục tiêu đưa kinh tế số chiếm 30% GDP vào năm 2030, ông Nguyễn Phú Tiến cho rằng, Việt Nam cần tập trung hoàn thiện chính sách, pháp luật để chuyển đổi các hoạt động kinh tế - xã hội lên môi trường số, thúc đẩy giao dịch điện tử, triển khai cơ chế thử nghiệm có kiểm soát cho mô hình kinh doanh mới và mô hình quản trị số.

“Phát triển kinh tế số đòi hỏi hạ tầng số phải được xây dựng nhanh, hiện đại và an toàn. Cùng với đó, cần thúc đẩy các nền tảng số do người Việt Nam làm chủ, trở thành không gian phục vụ hoạt động kinh tế - xã hội và giải quyết các bài toán phát triển liên ngành, liên vùng. Hiện nay, các doanh nghiệp công nghệ trong nước đã sở hữu nhiều nền tảng do chính chúng ta làm chủ. Trên cơ sở đó, có thể tiếp tục mở rộng và phát triển kinh tế số. Đồng thời, cần chú trọng các nội dung bảo đảm an toàn, an ninh mạng; đặc biệt là trang bị cho người dân những kiến thức và công cụ cơ bản để tự bảo vệ mình trong môi trường số”, ông Tiến chia sẻ.

Tránh tạo thêm các rào cản không cần thiết

Theo Nhóm công tác Kinh tế số - VBF, để nền kinh tế số có thể thực sự bứt phá hơn nữa, các cơ quan, bộ ngành khi soạn thảo quy định cần đảm bảo quy định mới phù hợp với thực tiễn hoạt động của doanh nghiệp và thị trường, tránh gây thêm các rào cản không cần thiết đối với hoạt động của doanh nghiệp hoặc đưa ra các thủ tục hành chính rườm rà, nặng nề, tạo thêm gánh nặng tuân thủ đối với doanh nghiệp.

“Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng một nền kinh tế càng nhiều quy định rườm rà và mang tính hạn chế thì tính đổi mới càng kém. Đối với một lĩnh vực có tốc độ phát triển và thay đổi cực kỳ nhanh chóng như ngành ICT, có thể các cơ quan, bộ ngành sẽ cảm thấy thôi thúc cần phải bổ sung khuôn khổ pháp lý nhằm quản lý những mô hình kinh doanh mới, chưa rõ ràng. Tuy nhiên, Chính phủ Việt Nam cần thận trọng, tránh việc ban hành các quy định vượt quá mức cần thiết và cần tham khảo kinh nghiệm quốc tế để xem các quốc gia tiên tiến khác trên thế giới đang khám phá và áp dụng các giải pháp đối với những vấn đề mới mẻ này như thế nào, và áp dụng các thông lệ tốt một cách thiết thực nhất đối với thị trường Việt Nam”, ông Seck Yee Chung, Đại diện Nhóm công tác Kinh tế số nhấn mạnh.

Bên cạnh đó, Việt Nam cần tiếp tục đẩy mạnh công cuộc cắt giảm, đơn giản hoá thủ tục hành chính, điều kiện kinh doanh cho doanh nghiệp, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực kinh tế số. Cơ quan quản lý cần đảm bảo sự cân bằng giữa mục tiêu quản lý nhà nước với lợi ích của doanh nghiệp, tránh đưa ra thủ tục hành chính mới khi mục đích quản lý và hiệu quả của những yêu cầu đó còn chưa rõ ràng.

Dòng chảy dữ liệu tự do, không bị cản trở bởi biên giới vật lý, là yếu tố nền tảng, thiết yếu cho một nền kinh tế số phát triển mạnh mẽ và an toàn. Khi yếu tố này được đảm bảo, doanh nghiệp trong nước sẽ có thể tiếp cận các công nghệ mới, hiện đại trên toàn cầu, ví dụ như dịch vụ phân tích, xử lý dữ liệu, dịch vụ điện toán đám mây, trí tuệ nhân tạo..., một cách dễ dàng, giúp doanh nghiệp có thể khai thác giá trị nhiều hơn từ dữ liệu của mình thông qua các công cụ hiện đại trên toàn cầu trong khi vẫn có thể giảm thiểu chi phí hoạt động.

Theo Nhóm Công tác đầu tư và thương mại - VBF, Việt Nam muốn trở thành trung tâm số khu vực thì quy định chuyển dữ liệu cần một cơ chế khả thi. Luật Dữ liệu và Nghị định 165 đang yêu cầu đánh giá tác động và phải có phê duyệt của cơ quan có thẩm quyền trước khi truyền dữ liệu cốt lõi ra nước ngoài và chồng chéo với quy định bảo vệ dữ liệu cá nhân, làm giảm sức hút đầu tư trung tâm dữ liệu lớn. Bởi vậy, một cơ chế đánh giá rủi ro đơn giản và phù hợp với chuẩn mực quốc tế trong khi vẫn bảo đảm an ninh quốc gia là cần thiết.

Ngoài ra, việc yêu cầu các nhà vận hành nền tảng thương mại điện tử nước ngoài phải thành lập pháp nhân tại Việt Nam trong một số trường hợp là một rào cản lớn. Quy định này có thể khiến các doanh nghiệp nước ngoài e ngại tham gia hoạt động tại thị trường Việt Nam, đặc biệt là các doanh nghiệp khởi nghiệp và doanh nghiệp nhỏ và vừa (SME) vốn dựa nhiều vào mô hình kỹ thuật số tinh gọn. Điều này cũng có thể làm giảm sự đa dạng dịch vụ cung cấp cho người tiêu dùng Việt Nam và cản trở sự phát triển của thương mại điện tử xuyên biên giới. Có thể thay bằng cơ chế đăng ký, văn phòng đại diện hoặc đầu mối liên hệ chịu trách nhiệm tại Việt Nam.

Theo Hiệp hội doanh nghiệp Hoa Kỳ tại Việt Nam (AmCham), Việt Nam nên áp dụng cách tiếp cận toàn diện và phù hợp với chuẩn mực toàn cầu trong việc xây dựng các luật và quy định liên quan đến kinh tế số, như Luật Thương mại điện tử và Luật An ninh mạng sửa đổi, nhận thức rõ bản chất xuyên biên giới của các dịch vụ số. Cần khắc phục sự chồng chéo và bất cập giữa các luật, đồng thời tránh tạo thêm rào cản không cần thiết. Các yêu cầu pháp lý đối với sàn thương mại điện tử cần tính đến sự đa dạng mô hình kinh doanh, tránh trùng lặp với luật khác và hạn chế các nghĩa vụ đại diện địa phương không cần thiết,… Tương tự, các quy định về an ninh mạng và Nghị định 147/2024 cần dựa trên tiền lệ quốc tế và tránh yêu cầu lưu trữ dữ liệu nội địa có thể làm gián đoạn dòng chảy dữ liệu xuyên biên giới, cản trở đầu tư và phát triển kinh tế số.

Kinh tế số đang trở thành động lực tăng trưởng quan trọng của Việt Nam, mở ra không gian phát triển mới cho doanh nghiệp và nền kinh tế. Việc hoàn thiện hệ thống pháp lý linh hoạt và hiện đại cùng cơ sở hạ tầng, nhân lực số,… sẽ quyết định khả năng bứt phá trong giai đoạn tới của Việt Nam.

 Anh Mai (Vietnam Business Forum)