Nâng cao năng suất trong logistics có thể trở thành nguồn lực tăng trưởng

10:46:46 | 17/4/2014

“Hệ thống dịch vụ logistics về thương mại của Việt Nam vẫn chưa theo kịp các nước trong vùng (như TQ, Thái Lan, Malaysia) về các biện pháp nhằm nâng cao cạnh tranh về chi phí. Việc nâng cao hiệu quả dịch vụ logistics có thể tạo ra những kết quả gia tăng năng suất bền vững, duy trì tăng trưởng cho Việt Nam”. Đây là nhận xét của ông Paul Vallely, Senior Transport Specialist and Transport Cluster Leader, WB tại Hội thảo “Chi phí vận tải ở Việt Nam” do Bộ Giao thông - Vận tải tổ chức vừa qua tại Hà Nội.

Theo WB, những yếu tố quan trọng duy trì tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong giai đoạn 1990-2010 là lao động di cư từ nông thôn đến thành thị và thị trường lao động trẻ - sẽ giảm dần, buộc nâng cao năng suất phải trở thành một ưu tiên trong những giai đoạn tới của Việt Nam. Bên cạnh đó, Việt Nam có vị trí địa lý thuận lợi, ổn định chính trị và đầu tư vào cơ sở hạ tầng là những điều kiện then chốt cho sự phát triển nhanh chóng về công nghiệp và sản xuất, gia tăng thương mại và kết nối toàn cầu.


Tuy nhiên, trên thực tế, chi phí logistics ở Việt Nam nằm ở trong khoảng 20,9 - 25% GDP, cao hơn 10% so mức bình quân với các nước đang phát triển trong khu vực. Nếu tính trên giá trị, Việt Nam hiện chi cho logistics nhiều hơn khoảng 10-15 tỷ USD/năm so với các nước có cùng trình độ phát triển.

Theo ông Hoàng Anh Dũng, chuyên gia giao thông của WB, dịch vụ logistics ở Việt Nam không chỉ có chi phí cao, mà còn có hiệu quả thấp. Chỉ tính riêng năm 2012, chi phí với hàng hóa lưu kho quá hạn trong cả nước do chậm trễ trong thủ tục hải quan lên tới 100 triệu USD và có thể sẽ lên tới 121 triệu USD vào năm 2015 và năm 2020 là 182 triệu USD.

Theo ông Paul Vallely, lý do khiến các hoạt động về logistics tại Việt Nam tương đối thiếu hiệu quả hơn so với các nước khác là thiếu độ tin cậy xuyên suốt chuỗi cung ứng. Khi các chi phí về logistics được tính theo các phần cấu thành, có thể thấy rõ là sự thiếu hiệu quả tương đối trong dịch vụ logistics ở VN không phải là do giá cả về vận tải, đặc biệt là trong tình hình hiện nay khi quá tải về vận tải khiến cho giá thành hạ, mà chủ yếu do chi phí cao trong kiểm kê hàng hóa và kho bãi.

Chi phí lưu hàng tồn và luân chuyển hàng tiếp phụ thuộc vào độ tin cậy và khả năng dự đoán trong chuỗi cung ứng. Trong thời điểm Việt Nam đang cạnh tranh trên thị trường quốc tế và tham gia thương mại ở những thị trường hàng hóa có giá trị gia tăng cao, sản xuất theo đơn đặt hàng thời hạn ngắn, và theo lộ trình địa phương, khu vực và cả xuyên lục địa, thì việc nâng cao độ tin cậy sẽ trở nên thiết yếu.

Theo nghiên cứu của WB, sự thiếu hiệu quả trong kỹ thuật và tổ chức tại Việt Nam gây ra thiếu tính tin cậy trong chuỗi cung ứng. Trong đó, các quy định của Chính phủ thường không dễ hiểu và gây trở ngại, quy trình thông quan xuất nhập khẩu mất nhiều thời gian và khó dự đoán hơn. Bên cạnh đó, các chi phí bôi trơn của các công ty và đối tác vận chuyển hàng hóa được cho là  “cần thiết” để hàng có thể luân chuyển thuận lợi qua cuỗi cung ứng với ít trì hoãn nhất. Các nhìn nhận này dẫn đến một tỷ lệ cao các chi phí bôi trơn, tạo ra lạm phát trong tổng chi phí dịch vụ cho thông quan, thanh tra hàng hóa và vận tải đường bộ. Việc này dẫn đến thiếu minh bạch trong cả quy trình.

Ngoài ra, việc lập kế hoạch cơ sở hạ tầng giao thông vận tải không sử dụng một cách chiến lược phương thức tiếp cận hành lang đa phương tiện và những phân tích cung-cầu cần thiết…; hệ thống cảng và hàng hải được quản lý phân mảng, thiếu tính chặt chẽ, tình trạng tắc nghẽn cao, thiếu tiềm lực tài chính cho các dự án xây dựng cảng và đường; việc xây dựng các khu công nghiệp dành cho kho và lưu hàng vẫn còn chậm phát triển; vận tải hàng hóa bằng đường sắt chưa được khai thác sử dụng là những lý do khiến chuỗi cung ứng không phát triển bền chặt .

Một  nguyên nhân nữa là ngành công nghiệp vận tải đường bộ bị phân mảng, chưa cung cấp được các dịch vụ đạt tiêu chuẩn cho chủ sở hữu hàng hóa; thị trường vận tải đường bộ hiện có quá nhiều các công ty nhỏ cạnh tranh về giá thấp chứ không phải về chất lượng dịch vụ đã khiến độ tin cậy trong dịch vụ logistics tại Việt Nam kém hiệu quả.

“Thách thức này có thể và nên được xem là một xúc tác quan trọng cho cải cách”, đại diện WB khẳng định.

Kết quả nghiên cứu của WB cho thấy, hoạt động vận tải trong chi phí logistics của Việt Nam có khả năng cạnh tranh, chủ yếu nhờ cắt giảm chi phí vận chuyển lưu kho trong chuỗi cung ứng.

Trong 5-10 năm tới, để cải thiện tính tin cậy của chuỗi cung ứng và tăng cường năng lực cạnh tranh, Việt Nam phải đảm bảo các quy định của Chính phủ và các hoạt động theo thương mại quốc tế được minh bạch, nhất quán, được áp dụng và thi hành chặt chẽ, đồng thời cần hiện đại hóa hệ thống hải quan, sử dụng phương thức đa phương tiện tích hợp trong việc lập kế hoạch cho các dự án cơ sở hạ tầng giao thông, thúc đẩy một ngành công nghiệp vận tải chuyên nghiệp hơn.

Quỳnh Anh