DN Việt gặp khó vì môi trường kinh doanh chưa “mở”

10:21:32 | 25/4/2014

Muốn phát triển kinh tế không chỉ cần dựa vào nội lực mà cũng cần có sự giúp sức rất lớn của yếu tố ngoại lực. Điều này càng có ý nghĩa hơn khi loại hình doanh nghiệp nhỏ và vừa chiếm đa phần và chủ yếu trong nền kinh tế Việt Nam. Các doanh nghiệp dạng này phần lớn không có sự “bao cấp” của nhà nước nên rất nhạy cảm, dễ bị tác động khi tổng thể nền kinh tế gặp sự cố. Do đó, việc xây dựng một môi trường kinh doanh thông thoáng, cơ chế có độ mở lớn, không phân biệt kinh tế quốc doanh, kinh tế ngoài nhà nước đang là những mong mỏi rất chính đáng của khối doanh nghiệp này.

Mặc dù, bối cảnh tổng thể nền kinh tế năm 2014 đã có nhiều tín hiệu lạc quan và đi lên rõ rệt so với tình hình kinh ảm đạm của năm 2013. Cụ thể, như tảng  băng bất động sản đã có nhiều dấu hiệu ấm trở lại, giải phóng được một lượng vốn rất lớn đang tồn đọng ở đây. Thị trường tài chính liên ngân hàng dưới sự chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ và Ngân hàng Trung ương đã có nhiều biện pháp mạnh tay nhằm tăng tính thanh khoản, lưu thông vốn tốt hơn như việc bắt buộc các ngân hàng phải có báo cáo định kỳ lên Ngân hàng Trung ương, chế độ kiểm tra chéo lẫn nhau.… Chính phủ cũng nỗ lực tối đa, bằng mọi biện pháp để cứu cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam, riêng với thị trường bất động sản ngoài gói bơm vốn 20.000 tỷ tới đây tiếp tục là gói hỗ trợ 50.000 tỷ giúp phá băng thị trường này.

 

Theo Tiến sĩ Cao Sỹ Kiêm, ở Việt Nam doanh nghiệp nhỏ và vừa là loại hình doanh nghiệp chiếm đa số và chủ yếu, loại hình DN này đóng vai trò rất quan trọng nhất trong việc tạo việc làm, tăng thu nhập cho người lao động, giúp huy động các nguồn lực xã hội cho đầu tư phát triển, xóa đói giảm nghèo… Cụ thể, về lao động, hàng năm tạo thêm trên nửa triệu lao động mới; Sử dụng tới 51% lao động xã hội và đóng góp hơn 40% GDP… Mặc dù có những đóng góp lớn lao cho nền kinh tế quốc dân như vậy song phần lớn các chủ doanh nghiệp đều kêu ca họ có quá ít quyền lợi thậm chí bị phân biệt đối xử với một số thành phần kinh tế do nhà nước nắm độc quyền khác.


Cụ thể như về việc tiếp cận các chính sách, chương trình ưu đãi của Chính phủ còn rất hạn chế, nếu không nói là quá ít. Theo đó, tỷ lệ DNNVV tham gia vào các chương trình hỗ trợ của Chính phủ như: Chương trình xúc tiến thương mại quốc gia, Quỹ đổi mới Khoa học công nghệ… còn rất khiêm tốn (dưới 10%). Một kênh hỗ trợ khác là tiếp cận vốn vay dưới dạng bảo lãnh tín dụng và hỗ trợ tín dụng. Tuy nhiên, trên thực tế mới có một số lượng nhỏ các DN đã được thụ hưởng chính sách hỗ trợ này. Theo các số liệu thu thập được có đến có đến 50% doanh nghiệp gặp trở ngại với yêu cầu thế chấp; 80% doanh nghiệp  tỷ lệ lãi suất chưa phù hợp. Ngoài ra, các chế tài pháp lý để vay vốn hiện nay chưa phù hợp với DNNVV, ông Kiêm phân tích.


Còn theo phân tích và đánh giá của Tiến sĩ Lê Đăng Doanh môi trường kinh doanh của Việt Nam trong năm 2014 vẫn còn gặp phải rất nhiều khó khăn. Cụ thể là việc các doanh nghiệp ngay từ thời điểm đầu năm đã lên kế hoạch kinh doanh một cách đầy thận trọng. Có tình trạng trên là do, nền kinh tế khó khăn, nên sức cầu trong dân giảm sút rất nhiều. Số liệu trong quý I/2014, trong khi công nghiệp chỉ tăng 4,69% thì hàng tồn kho lại tăng tới 13,4%. Vì vậy, việc DN lo lắng đặt mục tiêu tăng trưởng thấp là hoàn toàn có cơ sở.


Tiến sĩ Lê Đăng Doanh cũng dự báo với môi trường kinh doanh như hiện nay thì chỉ một số ngành kinh tế sẽ có cơ hội phát triển tốt. Như các doanh nghiệp xuất khẩu sẽ có cơ hội lớn và các doanh nghiệp đáp ứng các nhu cầu thiết thực của người dân như giáo dục, y tế và các DN hoạt động trên các lĩnh vực về môi trường, an toàn vệ sinh thực phẩm…  Tuy nhiên, bên cạnh đó, các DN liên quan đến ngành bất động sản sẽ tiếp tục gặp khó khăn. Điều này thể hiện qua lượng tồn kho rất lớn của các mặt hàng như xi măng, sắt thép…


Một vấn đề khác cũng có tác động lớn đến môi trường kinh doanh của các doanh nghiệp đó là các chế tài và quy định pháp lý, hiện tại Bộ Kế hoạch và Đầu tư là một trong những cơ quan đang khẩn trương ban hành nhiều chế tài nhằm tạo hành lang pháp lý thông thoáng giúp cải thiện môi trường đầu tư và kinh doanh của doanh nghiệp hơn. Cụ thể như việc, Bộ đang hoàn thiện trình Quốc hội, Chính phủ Luật Đầu tư công, Luật Doanh nghiệp sửa đổi v.v… để sớm đưa các bộ luật áp dụng vào thực tiễn giúp tạo môi trường kinh doanh tốt, hỗ trợ sản xuất kinh doanh.


Anh Phương