10:46:41 | 17/6/2014
Bảo hiểm xã hội (BHXH) được thực hiện ở Việt Nam từ năm 1945 và đã trải qua nhiều lần bổ sung, sửa đổi; đặc biệt trong các năm 1961, 1985 và 1995. Năm 1961, một Nghị định của Chính phủ được ban hành để cung cấp các dịch vụ phúc lợi xã hội cho tất cả các cán bộ, viên chức làm việc trong ngành nội chính, giáo dục, y tế, các doanh nghiệp Nhà nước, nội vụ. Hệ thống này chỉ chịu trách nhiệm bảo hiểm cho khoảng 600.000 - 700.000 người trên tổng số dân là 17 triệu người của miền Bắc Việt Nam.
Bắt đầu từ năm 1975, chính sách BHXH được thực hiện thống nhất trong cả nước. Chế độ BHXH bao gồm: trợ cấp hưu trí, mất sức lao động và tử tuất, cùng với các chế độ ốm đau, thai sản và tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp do cơ quan, đơn vị và doanh nghiệp đóng góp. Trước năm 1995, BHXH do Bộ Lao động, Thương binh & Xã hội chịu trách nhiệm quản lý thực hiện về các chế độ trợ cấp dài hạn và Tổng Liên đoàn Lao động chịu trách nhiệm quản lý thực hiện các khoản chi trả trợ cấp ngắn hạn.

Từ tháng 1/1995, Bộ Luật Lao động có hiệu lực, trong đó có chương XII về BHXH. Để hướng dẫn thực hiện Bộ Luật Lao động, ngày 16/2/1995 Chính phủ ban hành Nghị định số 19/CP thành lập hệ thống BHXH Việt Nam để giúp Thủ tướng Chính phủ tổ chức thực hiện các chính sách, chế độ về BHXH, BHYT và quản lý quỹ BHXH. Ngày 26/01/1995, Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị định số 12/CP về điều lệ BHXH đối với dân sự với 5 chế độ BHXH (chế độ trợ cấp ốm đau; trợ cấp thai sản; trợ cấp tai nạn lao động - bệnh nghề nghiệp; chế độ hưu trí và chế độ trợ cấp tử tuất) và ngày 15/7/1995, Chính phủ ban hành Nghị định số 45 quy định về BHXH đối với quân sự. Trong 2 nghị định của Chính phủ có quy định về hình thành quỹ BHXH trên cơ sở thu BHXH bao gồm người sử dụng lao động đóng 15% quỹ tiền lương và người lao động đóng 5% tiền lương hàng tháng. Quỹ này được sử dụng để chi cho 5 chế độ trên.
Mới đây ngày 17/01/2014, Thủ tướng Chính phủ ký ban hành Nghị định 05/2014/NĐ-CP quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của BHXH Việt Nam. Nghị định này thay thế Nghị định số 94/2008/NĐ-CP và chính thức có hiệu lực từ ngày 5/3/2014.
Khi mới thành lập, mọi vấn đề về tổ chức, cán bộ, cơ sở vật chất của ngành BHXH còn rất khó khăn và thiếu thốn. Tuy nhiên với trách nhiệm trước Đảng, trước nhân dân, cán bộ, công chức, viên chức trong ngành đã quán triệt sâu sắc chức năng chủ yếu của ngành là thực hiện các chế độ, chính sách BHXH, BHYT. Vì vậy, toàn ngành đã rất quan tâm, nỗ lực nghiên cứu, tìm tòi các giải pháp hữu hiệu để thực hiện tốt nhất việc giải quyết các chế độ BHXH, BHYT cho đối tượng. Chủ động phối hợp với các cơ quan, Bộ, ban, ngành, đoàn thể và địa phương kịp thời tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong việc giải quyết chính sách, đảm bảo cho đối tượng nhanh chóng được hưởng chế độ BHXH, BHYT.
Từ khi đi vào hoạt động đến nay, với nhiều nỗ lực phấn đấu, kiên cường để thực hiện các mục tiêu chính trên, BHXH Việt Nam đã gặt hái được những thành quả rất đáng tự hào. Giải quyết kịp thời, đúng chế độ, chính sách cho các đối tượng tham gia BHXH, BHYT; số đối tượng tham gia BHXH, BHYT ngày càng tăng (năm 2000 là 10,4 triệu người, năm 2005 là 23,16 triệu người, năm 2009 tăng lên 53,3 triệu người và đến năm 2013 con số này đã lên tới hơn 62 triệu người). Theo đó số thu BHXH cũng tăng nhanh (năm 2000 đạt 969 tỷ đồng, năm 2005 đạt 3.065 tỷ đồng, năm 2009 đạt 12.834 tỷ đồng và năm 2013 đạt 164.450 tỷ đồng). Số chi trả chế độ và quản lý tài chính ngày càng lớn, đảm bảo đúng chế độ và chính sách (năm 2000, tổng cộng BHXH Việt Nam chi trả hết 896 tỷ đồng, năm 2005 chi trả 3.203,5 tỷ đồng, năm 2009 chi trả 14.499 tỷ đồng và năm 2013 chi trả tổng cộng 160.233,9 tỷ đồng). Số lượt người được thanh toán chi phí khám chữa bệnh BHYT ngày càng nhiều (năm 2000 là 15,1 triệu lượt người, năm 2005 đạt 39,9 triệu lượt người, năm 2009 đạt 88 triệu lượt người và năm 2013 đạt 123,275 triệu lượt người).
Ngày 23/7/2013, Phó Thủ tướng Vũ Văn Ninh đã ký Quyết định số1215/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược phát triển ngành BHXH Việt Nam đến năm 2020. Mục tiêu chung của Chiến lược nhằm tiếp tục phát triển ngành BHXH Việt Nam theo hướng hiện đại, đảm bảo đủ năng lực và điều kiện để nâng cao chất lượng, hiệu quả phục vụ và tổ chức thực hiện chính sách BHXH, BHYT, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
Trong đó, phấn đấu đến năm 2020 có khoảng 50% lực lượng lao động tham gia BHXH; 35% lực lượng lao động tham gia bảo hiểm thất nghiệp và trên 80% dân số tham gia BHYT. Chậm nhất đến năm 2015 đảm bảo liên thông, kết nối thông tin giữa các đơn vị BHXH trên địa bàn tỉnh, thành phố. Chậm nhất đến năm 2017 liên thông, kết nối thông tin giữa các đơn vị trong toàn ngành BHXH trên phạm vi cả nước. Chậm nhất đến năm 2020 liên thông, kết nối thông tin giữa các cơ quan thuộc ngành BHXH Việt Nam với các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh BHYT thuộc ngành y tế và các đơn vị tổ chức thực hiện chế độ, chính sách bảo hiểm thất nghiệp thuộc ngành lao động.
PV
từ ngày 18 – 19/12/2025
VCCI
từ 11/11/2025 đến 30/11/2025
VCCI