Khai thác hiệu quả tiềm năng khoáng sản: Chú trọng khâu quản lý

11:59:14 | 27/11/2014

Để đảm bảo lợi ích kinh tế và các vấn đề môi trường - xã hội, tỉnh Quảng Nam đã và đang quyết liệt vào cuộc, triển khai nhiều giải pháp nhằm quản lý chặt hoạt động khai thác khoáng sản trên địa bàn.

Quảng Nam là tỉnh có tiềm năng tương đối lớn về khoáng sản, vừa phong phú về chủng loại vừa đa dạng về nguồn gốc, đặc biệt là tài nguyên quặng phóng xạ (đi kèm trong một số khoáng sản như đất hiếm, than, graphit, photphat, pegmatit, đa kim …) với trữ lượng quặng nhiều nhất và chất lượng quặng tốt nhất cả nước. Hiện nay, toàn tỉnh có khoảng 45 loại khoáng sản, một số khoáng sản có giá trị được phát hiện có trữ lượng lớn, đã được thăm dò và đưa vào khai thác.


Một số mỏ vàng có trữ lượng lớn đang được khai thác như Bồng Miêu, Đăk Sa…; than đá có 3 mỏ đang được khai thác là Nông Sơn, Ngọc Kinh, An Điềm với tổng trữ lượng khoảng 13 triệu tấn; Uran đã phát hiện và ghi nhận 4 mỏ với trữ lượng khoảng trên 14.000 tấn và phân bố tập trung ở Thạnh Mỹ; Felspat có 3 mỏ là Đại Lộc, Đại An, Lộc Quang với trữ lượng khoảng 1,84 triệu tấn; cát thủy tinh hiện có 5 mỏ là Hương An (Quế Sơn), Bình Tú, Tân An, Khương Đại, Liễu Trì (Thăng Bình) và 1 điểm khoáng sản Tam Anh (Núi Thành) với tổng trữ lượng trên 160 triệu tấn; đá xây dựng phân bố ở nhiều nơi trên địa bàn tỉnh, một số mỏ đã được thăm dò và đang khai thác như granit Núi Kiến - Đa Hàm (Quế Sơn), granittogneis (Núi Thành) và một số mỏ đã và đang được điều tra, tổng trữ lượng có thể trên 100 triệu m3; đá vôi có 2 mỏ là A Sờ và Thạnh Mỹ với trữ lượng dự kiến trên 600 triệu tấn; cát, cuội, sỏi thường phân bố ở bãi bồi ven hệ thống các sông của tỉnh với trữ lượng khá lớn

Những con số thống kê trên cũng đã phần nào cho thấy nguồn tài nguyên khoáng sản của Quảng Nam vô cùng phong phú và dồi dào, tạo điều kiện cho ngành công nghiệp khai thác khoáng sản của tỉnh hình thành và phát triển. Theo báo cáo của UBND tỉnh, đến nay toàn tỉnh có 69 giấy phép khai thác khoáng sản còn hiệu lực; trong đó Bộ TN&MT cấp 11 giấy phép, UBND tỉnh cấp 58 giấy phép. Các giấy phép được cấp chủ yếu ở các lĩnh vực khai thác đá ốp lát, felspat, cát trắng, vàng gốc, cát, đá làm vật liệu xây dựng (VLXD) thông thường... Trong quá trình khai thác, chế biến, các doanh nghiệp luôn đảm bảo các biện pháp bảo vệ môi trường; thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với nhà nước, góp phần giải quyết việc làm cho lao động địa phương. Từ đầu năm 2014 đến nay, các tổ chức, cá nhân khai thác khoáng sản trên địa bàn tỉnh đã thực hiện nghĩa vụ tài chính với tổng số tiền nộp vào ngân sách gần 40,6 tỷ đồng.

Tuy nhiên bên cạnh những doanh nghiệp tổ chức khai thác khoáng sản đúng quy định, trong nhiều năm qua trên địa bàn tỉnh Quảng Nam vẫn còn tồn tại tình trạng khai thác khoáng sản trái phép, không chỉ tác động xấu đến môi trường sống, gây thất thoát nguồn tài nguyên mà còn gây nên những khó khăn về đảm bảo an ninh trật tự. Nhằm khắc phục những bất cập đang tồn tại, đồng thời để đảm bảo lợi ích kinh tế và các vấn đề môi trường và xã hội, chính quyền tỉnh Quảng Nam cam kết sẽ dành nhiều sự quan tâm hơn nữa cho vấn đề bảo vệ khoáng sản, nhằm quản lý tốt việc khai thác khoáng sản trên địa bàn tỉnh; góp phần giảm thiểu tình trạng khai thác trái phép, gây mất an ninh trật tự.

Và động thái mới nhất cho cam kết này là UBND tỉnh đã ra quyết định ban hành Quy hoạch thăm dò, khai thác và sử dụng mỏ khoáng sản làm VLXD thông thường giai đoạn đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030. Theo Quy hoạch, có 727 điểm mỏ sẽ được thực hiện đối với 4 loại khoáng sản gồm: đá xây dựng; cát, sỏi xây dựng; sét gạch ngói; đất san lấp, có tổng diện tích hơn 5.925 ha. Giai đoạn từ nay đến năm 2020, sẽ ưu tiên thăm dò, khai thác các điểm mỏ thuận lợi về giao thông, có trữ lượng lớn khai thác tập trung, cân đối đủ nhu cầu trong giai đoạn này; đến năm 2030 sẽ thăm dò, khai thác 514 điểm mỏ, diện tích hơn 4.029ha.

Quy hoạch cũng đưa ra yêu cầu đánh giá tiềm năng tài nguyên, chất lượng khoáng sản, hiện trạng thăm dò, khai thác và sử dụng khoáng sản làm VLXD thông thường trên địa bàn tỉnh, kết quả thực hiện kỳ quy hoạch trước. Đây chính là căn cứ pháp lý cho các cơ quan chức năng của tỉnh quản lý nguồn khoáng sản làm VLXD nhằm sử dụng có hiệu quả, đúng mục đích, phát triển bền vững ngành công nghiệp VLXD. Bên cạnh đó còn giúp tỉnh xác định nhu cầu, trữ lượng khoáng sản làm VLXD cần thăm dò, khai thác và sử dụng từ nay đến năm 2020 và khả năng đáp ứng từ nguồn tài nguyên khoáng sản, ổn định nguồn nguyên VLXD của tỉnh, đảm bảo mục tiêu phát triển bền vững.

Thanh Thảo