Thị trường công nghệ thông tin Nhật Bản hấp dẫn các doanh nghiệp Việt Nam

10:28:11 | 2/12/2014

Với bề dày trên 40 năm quan hệ hợp tác Việt Nam- Nhật Bản, Nhật Bản đang là thị trường số 1 của các doanh nghiệp Việt Nam đang hướng tới, trong đó có ngành công nghệ thông tin. Phóng viên Tạp chí Vietnam Business Forum đã có cuộc phỏng vấn ông Nguyễn Minh Hồng, Thứ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông xung quanh thị trường tiềm năng này. Lê Hiền thực hiện.

Ông có thể khái quát tình hình phát triển ngành công nghệ thông tin (CNTT) của Việt Nam?

Trong những năm qua, trong bối cảnh khó khăn kinh tế nói chung của đất nước, ngành công nghiệp CNTT Việt Nam vẫn là một điểm sáng và có kết quả phát triển tích cực. Tốc độ tăng trưởng của ngành vẫn cao hơn khá nhiều tốc độ tăng trưởng bình quân GDP cả nước. Trong năm 2013 vừa qua, tổng doanh thu ngành công nghiệp CNTT đạt khoảng gần 40 tỷ USD, trong đó, tổng kinh ngạch xuất khẩu công nghiệp phần cứng - điện tử  đạt 34,76 tỷ USD. Cơ cấu xuất khẩu chủ yếu là điện thoại di động chiếm tới 63%. Doanh thu công nghiệp phần mềm năm 2013 tăng 12,7% so với năm 2012, đạt khoảng 1.3 tỷ USD. Lĩnh vực công nghiệp nội dung số mặc dù chịu ảnh hưởng bởi khó khăn của nền kinh tế nhưng vẫn tăng 13,9% so với năm 2012, đạt khoảng 1.4 tỷ USD. Trong những năm qua, ngành công nghiệp phần cứng - điện tử đã thu hút thành công nhiều tập đoàn công nghệ thông tin hàng đầu thế giới đầu tư vào Việt Nam để xây dựng các nhà máy sản xuất, lắp ráp thiết bị phần cứng, điện tử, thiết bị viễn thông như: Intel, Samsung, NIDEC, Canon, Nokia, Fujitsu (Nhật Bản),…

Về tình hình triển khai ứng dụng CNTT và phát triển Chính phủ điện tử của Việt Nam, nhằm tạo cơ sở pháp lý cho công tác triển khai ứng dụng CNTT tại Việt Nam, năm 2006, Quốc hội đã ban hành Luật Công nghệ thông tin. Căn cứ Luật CNTT, ngày 10/4/2007, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 64/2007/NĐ-CP về Ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của cơ quan nhà nước. Đến nay, ứng dụng CNTT trong hoạt động của cơ quan nhà nước và phát triển Chính phủ điện tử của Việt Nam đạt đạt được kết quả khả quan: Tỷ lệ máy vi tính trên tổng số cán bộ công chức đạt 86,72% tại Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, 89,70% tại các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; gần 100% các máy tính được kết nối Internet; 100% các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã có Website/Portal; đã cung cấp 2.366 dịch vụ công trực truyến mức độ 3, 111 dịch vụ công trực truyến mức độ 3, trong đó có các dịch vụ điển hình như Thuế thu nhập cá nhân, Hải quan điện tử, ... Một số tỉnh, thành phố đã xây dựng được hệ thống Chính quyền điện tử hiệu quả như Thành phố Đà Nẵng, Thành phố Hồ Chí Minh, Thừa Thiên - Huế.

Đại sứ Nhật Bản tại Việt Nam Hiroshi Fukada đến thăm và làm việc với cán bộ nhân viên công ty Phần mềm FPT

 Ông đánh giá thế nào về mối quan hệ Việt Nam- Nhật Bản, đặc biệt trong phát triển ngành CNTT?

Kể từ khi hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao ngày 21/9/1973, quan hệ Nhật Bản – Việt Nam đã có những bước phát triển ngoạn mục. Nhất là từ khi hai nước thống nhất thiết lập mối quan hệ đối tác chiến lược từ 11/2007. Từ đó đến nay, quan hệ hợp tác, hữu nghị giữa hai nước không ngừng được củng cố, phát triển mạnh trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục, trong đó có lĩnh vực công nghệ thông tin. Trong những năm qua, việc hợp tác trong lĩnh vực CNTT đã giúp hai nước sử dụng được các tiềm năng thế mạnh của mỗi nước về vốn, công nghệ, kỹ năng, con người, thế mạnh thị trường để cùng phát triển. Nhật Bản là một thị trường lớn, có nền kinh tế phát triển hàng đầu thế giới nên là thị trường hấp dẫn các doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là doanh nghiệp phần mềm.

Thực tại của mối quan hệ, liên kết ngành CNTT của Việt Nam với Nhật Bản là như thế nào, thưa ông?

Trong những năm gần đây, hợp tác Việt Nam – Nhật Bản trong lĩnh vực CNTT đã phát triển vượt bậc, đạt nhiều kết quả tốt, đặc biệt trong lĩnh vực gia công phần mềm. Từ năm 2009 Việt Nam giữ vững vị trí là đối tác được ưa thích của các doanh nghiệp Nhật Bản. Trong lĩnh vực đảm bảo an toàn thông tin, Việt Nam và Nhật Bản đã có hợp tác chặt chẽ trong khuôn khổ song phương lẫn hợp tác trong khuôn khổ hợp tác đa phương ASEAN – Nhật Bản. Trong lĩnh vực phần cứng - điện tử, thông qua sự hỗ trợ của JICA, các nhóm công tác đã nghiên cứu, xây dựng và trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 1290/QĐ-TTg ngày 01/8/2014 phê duyệt Kế hoạch hành động phát triển ngành công nghiệp điện tử thực hiện Chiến lược công nghiệp hóa của Việt Nam trong khuôn khổ hợp tác Việt Nam - Nhật Bản hướng đến năm 2020, tầm nhìn 2030. Kế hoạch này sẽ đóng vai trò quan trọng cho thúc đẩy phát triển ngành công nghiệp phần cứng - điện tử Việt Nam trong giai đoạn đến năm 2020.  Nhật Bản là một quốc gia lớn, có dân số đông, nền kinh tế thuộc nhóm các nước dẫn đầu thế giới. Vì vậy, thị trường CNTT Nhật Bản đặc biệt quan trọng đối với Việt Nam. Tín hiệu vui là các doanh nghiệp Việt Nam đang dần chiếm được niềm tin của các doanh nghiệp Nhật Bản và hy vọng sẽ tiếp tục có nhiều hợp tác thành công trong thời gian tới. 

Đâu là những dự án CNTT mang dấu ấn doanh nghiệp Việt Nam – Nhật Bản, thưa ông?

Trong vài năm qua, hầu hết các doanh nghiệp phần mềm Việt Nam có gia công phần mềm cho thị trường Nhật Bản đều có doanh thu tăng mạnh, một số công ty đã chuyển hẳn sang 100% phục vụ thị trường Nhật Bản, như Luvina, Run System,… Riêng FPT Software, công ty phần mềm lớn nhất Việt Nam thì hiện có trên 50% doanh thu là từ thị trường Nhật Bản, mức tăng trưởng doanh thu từ Nhật Bản đạt đến 44% trong năm 2012. Đây là những kết quả nổi bật của việc hợp tác Việt –Nhật trong lĩnh vực CNTT thời gian qua. Việt Nam đã thành lập trung tâm sát hạch kỹ sư CNTT theo chuẩn Nhật Bản (VITEC) từ năm 2003 và hiện đặt tại Khu Công nghệ cao Hòa Lạc để sát hạch và cung cấp cho thị trường nguồn lao động CNTT theo tiêu chuẩn Nhật Bản. Việt Nam cũng đang xây dựng các chuẩn kỹ năng nhân lực CNTT quốc gia, trong đó nhiều nội dung được tham khảo từ các chuẩn của Nhật Bản. Bên cạnh đó, các dự án đào tạo là lĩnh vực hợp tác có hiệu quả, như dự án hỗ trợ đào tạo 120 kỹ sư CNTT-TT theo chuẩn quốc tế, đào tạo sau đại học 40 thạc sĩ và 12 tiến sĩ, đào tạo giảng viên tiếng Nhật, xây dựng 05  phòng thí nghiệm,  04 phòng thực hành máy tính, 03 phòng thực hành tiếng Anh, Nhật giai đoạn 2006-2010. Thông qua các dự án này, nguồn nhân lực CNTT có chất lượng của Việt Nam được tăng cường đáng kể, góp phần đẩy nhanh hơn các dự án hợp tác giữa hai nước. Hai bên cũng nhất trí tiếp tục đẩy mạnh hoạt động hợp tác về đào tạo trong giai đoạn 2014-2016 theo đó Chính phủ Nhật Bản  tiếp tục đầu tư 60 triệu Yên để đào tạo nhân lực CNTT tại Việt Nam, theo đó sẽ có 10 giảng viên, trên 130 kỹ sư CNTT của Việt Nam được đào tạo từ chương trình này.