Mô hình hợp tác PPP trong lĩnh vực môi trường: Quan trọng nhất là đồng thuận

10:24:21 | 9/1/2015

Vừa qua, Tổ chức Bảo tồn thiên nhiên quốc tế (IUCN) tại Việt Nam và Hội đồng Doanh nghiệp vì sự phát triển bền vững Việt Nam (VBCSD/VCCI) đã phối hợp tổ chức chương trình Đối thoại kết hợp Hành trình báo chí “Tăng cường đối tác công tư trong bảo vệ môi trường biển và vùng ven biển” tại Hà Nội và vịnh Hạ Long. Chương trình có sự tham gia của các bộ, ngành Trung ương, một số tỉnh, thành phố ven biển của Việt Nam, đại diện các doanh nghiệp và cơ quan truyền thông.

Tại buổi Đối thoại, ông Hồ Công Hòa – Chuyên gia đến từ Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương đã đưa ra nhiều dẫn chứng đáng phải lưu tâm, gần 90% kinh phí của Nhà nước đầu tư vào phát triển cơ sở hạ tầng và chỉ có 10% được phân bổ cho hoạt động quản lý và bảo tồn. Nguồn vốn ODA mà Việt Nam nhận được cho các hoạt động liên quan đến bảo vệ môi trường đang giảm dần. Bên cạnh đó, mức tăng ngân sách nhà nước cho hoạt động bảo vệ môi trường rất thấp (trung bình 5,1%/năm). Vấn đề đặt ra là nguồn vốn cho bảo vệ môi trường biển và vùng ven biển không thể chỉ trông chờ vào ngân sách Nhà nước, cần phải thiết lập các định hướng cơ chế, chính sách thu hút nguồn vốn bên ngoài, trong đó có vốn từ tư nhân thông qua hình thức hợp tác Công tư PPP.

Bà Vũ Quỳnh Lê - Phó Cục trưởng – Cục Quản lý đấu thầu (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) cho biết, Chính phủ rất quan tâm vấn đề áp dụng hình thức PPP trong lĩnh vực môi trường. Vừa qua, Chính phủ đã chỉ đạo trực tiếp Bộ KH&ĐT nghiên cứu áp dụng hình thức PPP cho các dự án biến đổi khí hậu. Rất nhiều các dự án trong lĩnh vực môi trường đang được nghiên cứu triển khai theo hình thức này như Dự án xử lý rác thải công nghệ cao Sóc Sơn, Hà Nội; Các dự án xử lý nước thải tại Sài Gòn; và nhiều dự án xử lý nước thải, rác thải tại các khu công nghiệp...

Tuy nhiên, hợp tác công – tư (PPP) không là chìa khóa vạn năng để giải quyết tất cả những vấn đề. Các khó khăn như thiểu khung pháp lý, cán bộ thực hiện dự án chưa đủ kinh nghiệp, chưa sòng phẳng về trách nhiệm và lợi ích... đều là rào cản rất lớn để hình thức hợp tác PPP thực sự có hiệu quả. Đại diện một số doanh nghiệp đều đưa ra quan điểm, các dự án PPP đều là những dự án đầu tư, trong đó các nhà đầu tư tư nhân tìm kiếm lợi nhuận, do vậy lợi nhuận phải đủ lớn để ít nhất họ cũng có thể thu hồi vốn như trong các điều kiện kinh doanh thông thường khác. Còn Nhà nước lại can thiệp vào các dự án này theo quan niệm truyền thống nhưng không đủ nguồn vốn.

Ông Nguyễn Quang Vinh, Giám đốc Văn phòng Doanh nghiệp vì sự Phát triển Bền vững (VCCI) cũng cho rằng, Nhà nước phải làm tốt chức năng là người kiến tạo chính sách để hấp dẫn các bên tham gia. Còn Ông Trần Anh Tuấn – Phó chủ tịch tỉnh Bến Tre nhận định: ”Khi bắt tay vào xây dựng các Đề án áp dụng tại Việt Nam, các địa phương các nhà hoạch định chính sách, các chuyên gia, các doanh nghiệp và cả người dân cần đi đến một sự đồng thuận chung”. Việc tính toán đề tạo được cơ chế đồng thuận giữa các bên vẫn còn là bài toán khó cho các dự án môi trường nói chung và các dự án tại vùng biển và ven biển nói riêng.

Ông Hồ Công Hòa nhấn mạnh rằng, cần phải tiếp tục nghiên cứu, áp dụng thí điểm để triển khai PPP trong các dịch vụ môi trường, trong đó yếu tố ưu đãi về chính sách là quan trọng, nhưng tạo sân chơi bình đẳng, minh bạch còn quan trọng hơn nhiều.

Ông Võ Trí Thành - Phó viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương lại nhìn nhận những khó khăn PPP đến từ khía cạnh khác. Việc tính toán được cụ thể, chi tiết các thành phần và định giá hợp lý tài nguyên như một giá đầu vào của sản xuất hiện nay rất khó khăn. Ngay cả những phương pháp tính vốn tài nguyên, môi trường, xã hội trong các báo cáo tổng thể của các dự án cũng không đủ vì chưa phản ánh được tín hiệu thị trường.

Như vậy, các dự án PPP chỉ mang lại hiệu quả thực tế khi đáp ứng đúng được nhu cầu, tín hiệu của thị trường, định giá hợp lý tài nguyên môi trường, và tạo được cơ chế đồng thuận giữa các bên: Nhà nước, doanh nghiệp và người dân.

Trong khuôn khổ Chương trình Đối thoại và Hành trình báo chí, Tổ chức Bảo tồn thiên nhiên quốc tế (IUCN) cũng đã giới thiệu về kế hoạch hành động Liên minh vịnh Hạ Long - Cát Bà. Liên minh này ra đời nhằm xây dựng mối quan hệ hợp tác giữa chính quyền, doanh nghiệp và cộng đồng địa phương, từ đó làm chất xúc tác cho các hoạt động bảo tồn và bảo vệ Vịnh Hạ Long và Quần đảo Cát Bà. Ủy ban này sẽ xây dựng tầm nhìn và tư vấn về kế hoạch hành động cho Liên minh. Các mục tiêu khác trong hợp phần bao gồm nâng cao nhận thức cho công chúng về thực trạng môi trường thông qua các hoạt động liên kết với truyền thông, áp dụng một bộ tiêu chuẩn chứng nhận cho các công ty du thuyền hoạt động qua đêm trên các Vịnh, cải thiện chất lượng nước ở Hạ Long – Cát Bà, và tư vấn kỹ thuật để hoàn thành các báo cáo trình lên UNESCO. Hợp phần thứ hai của Liên minh do Trung tâm Bảo tồn Sinh vật Biển và Phát triển cộng đồng điều phối để kêu gọi sự tham gia của các bên liên quan tại Hạ Long...