10:57:39 | 30/1/2015
Thời điểm năm bản lề 2015 chính là lúc cần huy động tối đa nội lực của dân tộc. Việt Nam không mãi là quốc gia làm thuê mà phải tự tìm thương hiệu cho riêng mình. Phóng viên Tạp chí Vietnam Business Forum đã có cuộc trao đổi với Tiến sĩ Lê Đăng Doanh xung quanh vấn đề này. Anh Phương thực hiện.
Thưa ông, liệu Việt Nam có tự tin khi đặt ra mức tăng trưởng GDP ở con số 6,2% cho năm 2015 ?
Về mặt nguyên tắc, mục tiêu GDP năm 2015 đạt 6,2% là chỉ tiêu được ấn định trong Nghị quyết về kế hoạch phát triển kinh tế xã hội năm 2015 đã được Quốc hội thông qua. Điều đáng bàn ở đây là nhìn vào thực tế liệu chúng ta có hoàn thành vào mục tiêu này. Tôi cho rằng, đạt chỉ tiêu trên là hoàn toàn khả thi. Nếu so sánh với nhiệm vụ GDP của các năm trước đây, chúng ta có thể thấy rõ điều này. Cụ thể cao hơn mức tăng trưởng 5,25% năm 2012 và 5,42% của năm 2013. Điều này càng có ý nghĩa hơn khi chỉ cách đây vài tháng, tháng 5/2014 thông tin Trung Quốc hạ đặt trái phép giàn khoan 981 sẽ tác động tiêu cực đến quan hệ thương mại – đầu tư giữa hai nước từ đó ảnh hướng lớn đến mức tăng trưởng kinh tế nội địa.
Một điểm đáng ghi nhận khác là theo số liệu công bố mới đây của Tổng cục Thống kê, mức lạm phát của Việt Nam được cho là thấp nhất từ năm 2001 đến nay, dừng ở mức 1,84%. Đây thực sự là những tiến bộ rất đáng khen ngợi của toàn bộ hệ thống chính trị - xã hội – kinh tế của chúng ta. Vui mừng là có, song nhiệm vụ đặt ra cho năm 2015 để hoàn thành các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô vẫn còn khá nhiều thách thức. Gần đây nhất là sự sụt giảm giá dầu thô trên thế giới. Ứng phó với sự suy giảm nguồn năng lượng này, đã có đề xuất nên giảm 30% sản lượng khai thác dầu trong nước để tránh thiệt thòi cho ngành dầu khí. Ngoài ra, một số cường quốc kinh tế trên thế giới đã có dấu hiệu tăng trưởng chững lại thậm chí suy giảm như Trung Quốc, Nhật Bản, Nga…

Chính từ những rào cản trên cho thấy dù tiềm năng hoàn thành mục tiêu đạt mức tăng trưởng 6,2% của năm 2015 là hoàn toàn khả thi song chúng ta vẫn phải hoàn thiện và làm tốt những phần việc nặng nề đặt ra của nền kinh tế. Như phải cải thiện được căn bản chất lượng tăng trưởng, kết hợp với phát triển bền vững, kiểm soát tốt và khống chế tình trạng tham nhũng, giảm mức độ chênh lệch giàu nghèo trong xã hội. Môi trường đầu tư cần được quan tâm vì đây là một trong những kênh dẫn vốn và thu hút vốn quan trọng. Đặc biệt, cần lên giây cót cho các biện pháp ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát, ứng phó nhanh nhạy, kịp thời với tình huống xấu có thể xẩy ra.
Năm 2014 cũng là năm đầu tiên Quốc hội, Chính phủ đã thông qua nhiều đạo luật quan trọng, với tinh thần đổi mới, hướng đến mục tiêu phát triển bền vững nền kinh tế, ông có bình luận gì về nhận định trên?
Đúng là năm 2014, các cơ quan hành pháp và lập pháp của chúng ta đã biểu quyết nhất trí thông qua những đạo luật vô cùng quan trọng có tác động và ảnh hưởng to lớn đến đời sống chính trị - kinh tế của đất nước. Cụ thể như Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư (sửa đổi),… Nếu như ở Luật Đầu tư tinh thần của các nhà làm luật lần này đã thay đổi phương pháp tiếp cận từ “chọn cho” (nghĩa là cho cái gì thì ghi trong luật) chuyển sang “chọn bỏ” (quy định những gì cấm còn lại thì doanh nghiệp, nhà đầu tư được phép đầu tư kinh doanh theo quy định của pháp luật). Điều này đã cho thấy sự sáng suốt và thông tuệ của các nhà hoạch định chiến lược. Cũng như chính sách nhất quán của Chính phủ là tạo điều kiện thông thoáng, minh bạch cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Với Luật Doanh nghiệp sửa đổi lần này cũng hướng đến mục tiêu tạo điều kiện thuận lợi, ưu tiên cho các thành phần trong xã hội có thể mạnh dạn đầu tư kinh doanh. Những điều khoản gây bức xúc, phiền hà cho doanh nghiệp dần được gỡ bỏ hoặc gỡ bỏ hoàn toàn. Lần đầu tiên địa vị pháp lý của một loại hình doanh nghiệp mới, doanh nghiệp xã hội đã được chính danh nêu tên trong luật. Điều này sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp xã hội có điều kiện đóng góp nhiều hơn cho kinh tế nước nhà. Các vấn đề về sử dụng quản lý con dấu của doanh nghiệp cũng được quy định thông thoáng và hợp lý hơn tránh được các phiền hà không đáng có trong quá trình thực hiện các thủ tục hành chính, rút ngắn thời gian mà lâu nay các doanh nghiệp luôn phải đối mặt. Một quy định quan trọng khác là từ này chỉ doanh nghiệp có 100% vốn do nhà nước nắm giữ mới được coi là doanh nghiệp nhà nước.
Những thay đổi lớn trên trong việc điều hành quản lý vĩ mô nền kinh tế bằng các đạo luật trên một mặt cho thấy nhà nước đã tạo mọi điều kiện thuận lợi, ưu đãi khuyết khích các loại hình doanh nghiệp phát triển. Nhưng mặt khác cũng cho thấy quyết tâm cải cách thể chế đánh mạnh vào các chủ thể chính của nền kinh tế như đội ngũ doanh nghiệp, doanh nhân, các nhà đầu tư trong và ngoài nước.
Ông có nhắc đến cụm từ cải cách thể chế, song có ý kiến cho rằng nếu chúng ta không làm tốt công việc quản trị doanh nghiệp thì khó mà cải cách, ông nghĩ sao về quan điểm này ?
Có thể nói, không chỉ mô hình phát triển kinh tế của Việt Nam mà ngay cả các nước tiên tiến trên thế giới chủ thể doanh nghiệp cả tư nhân lẫn nhà nước luôn được quan tâm hàng đầu. Bởi đơn giản đây chính là những đơn vị trực tiếp làm ra của cải vật chất tạo giá trị gia tăng cho xã hội và toàn bộ nền kinh tế của mỗi quốc gia. Tuy nhiên, chỉ có điều lâu nay ở Việt Nam chủ thể doanh nghiệp nhà nước vẫn được hưởng nhiều đặc quyền đặc lợi hơn so với khối doanh nghiệp tư nhân. Điều này dần đã được các nhà lãnh đạo nhận thức và đã có những điều chỉnh hợp lý tăng quyền cho khối tư nhân. Song do đã duy trì trong một thời gian quá dài nên việc thay đổi trước mắt sẽ gặp không ít khó khăn. Và nếu nói riêng, hiện công tác quản trị doanh nghiệp đặc biệt là doanh nghiệp nhà nước của chúng ta còn rất nhiều bất cập. Đơn cử như có thông tin có đến 40% kiểm soát viên không lưu có trình độ trung bình và yếu, 30% không đạt trình độ tiếng Anh. Rồi câu chuyện vừa đá bóng vừa thổi còi, câu chuyện chủ sở hữu, vi phạm pháp luật trong ngành tài chính – ngân hàng. Trường hợp điển hình khác như ông Trần Văn Truyền có đến 6 bộ, cơ quan kiểm tra song vẫn để xẩy ra chuyện lùm xùm, không kiểm tra được nhân thân. Những ví dụ này cho thấy trình độ quản trị và bộ máy quản lý của chúng ta còn rất yếu kém. Đối nội đã khó như vậy thì khi ra thương trường khó có thể làm chủ được cuộc chơi chứ chưa nói đến cạnh tranh.
Năm 2015, được xem là năm được mùa của hiệp định thương mại đầu tư quốc tế như TPP, PPP, AEC…, theo ông đây có phải là những cú hích để kinh tế Việt Nam phát triển ?
Có thể nói sự phục hồi và tăng trưởng kinh tế trong năm tới sẽ có sự hậu thuẫn rất lớn từ việc Việt Nam đã đang triển khai thành công một loạt các hiệp định thương mại quan trọng. Như các hiệp định thương mại tự do với Hàn Quốc, với liên minh hải quan Nga – Belarus – Kazakhastan, với Hiệp hội thương mại tự do châu Âu, cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC), cũng khả năng kết thúc đàm phàn Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), hay Hiệp định đối tác công tư PPP.
Song theo tôi, chúng ta không nên quá trông chờ vào những nguồn ngoại lực trên mà cần phải phát huy nội lực, nội lực của dân tộc, Việt Nam cần tìm thương hiệu cho riêng mình. Việt Nam cần phải làm ra những kết quả của chính mình, đầu tư của chính người lao động Việt Nam. Phải làm sao xuất khẩu được khoa học công nghệ cao, tạo điều kiện ủng hộ doanh nghiệp trong nước. Xây dựng thương hiệu quốc gia nên học tập theo mô hình của tập đoàn Samsung (Hàn Quốc).
Đặc biệt, cần có những chính sách, ưu đãi lớn toàn diện hơn để ủng hộ các doanh nghiệp dân tộc giúp họ có đủ sức cạnh tranh với những ông lớn nước ngoài. Việt Nam cũng nên tránh những bài học đau lòng khi tự mạnh đánh mất, bán đi những thương hiệu quốc gia đã dầy công vun đắp như trường hợp của Kinh Đô, Phú Thái…./.
từ ngày 18 – 19/12/2025
VCCI
từ 11/11/2025 đến 30/11/2025
VCCI