Tác động của dòng vốn FDI đến nền kinh tế

14:33:18 | 24/4/2015

Dòng vốn trên sẽ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, giải quyết các điều kiện công ăn việc làm, chuyển giao công nghệ, hay biến Việt Nam thành công xưởng của thế giới, hiệu quả lan tỏa thấp, tác động xấu đến môi trường…  là nội dung chính của Hội thảo “Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài đến kinh tế Việt Nam”  vừa diễn ra tại Hà Nội.

Nguồn vốn lớn thúc đẩy tăng trưởng

Theo bà Mai Thị Thu, Giám đốc Trung tâm Thông tin và Dự báo kinh tế xã hội quốc gia, kể từ khi Luật Đầu tư nước ngoài được ban hành vào năm 1987, dòng vốn FDI đã được khơi thông và đóng vai trò quan trọng đến sự phát triển tổng thể nền kinh tế Việt Nam. Bằng việc huy động các nguồn tài chính lớn cho phát triển, đầu tư thúc đẩy tăng trưởng , tạo điều kiện cho chuyển giao công nghệ, thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, giải quyết việc làm cho người lao động và mở rộng hội nhập với thế giới...



Nhìn từ góc độ quản lý nhà nước, Tiến sĩ Đỗ Nhất Hoàng, Cục trưởng Cục Đầu tư nước ngoài đánh giá, vai trò then chốt của các nguồn vốn đầu tư nước ngoài đối với sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam là việc khơi dậy sự đầu tư trong nước và giúp kinh tế Việt Nam hội nhập sâu với nền kinh tế thế giới. Cụ thể, theo số liệu của Cục Đầu tư nước ngoài, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, năm 2014, tổng vốn FDI đăng ký cấp mới và tăng thêm đã đạt 21,92 tỷ USD. Trong bối cảnh đất nước còn nhiều khó khăn, lượng vốn này có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển kinh tế, xã hội.


Tiến sĩ Hoàng đưa thêm số liệu, tính đến ngày 31/12/2013, có 3,7 triệu lao động đang làm trong các doanh nghiệp FDI. Hơn nữa, nhờ có các khoản đầu tư trực tiếp nước ngoài, cơ cấu nông nghiệp đã giảm từ 22% xuống 18% và dịch vụ tăng từ 40% lên 44%.  Mặt khác, các DN FDI đã có đóng góp lớn vào giá trị xuất khẩu của Việt Nam. Quý I/2015, xuất khẩu của khu vực FDI (kể cả dầu thô) dự kiến đạt 25,08 tỷ USD, tăng 12,9% so với cùng kỳ năm 2014 và chiếm 70% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước. Nhập khẩu của khu vực này đạt 23,09 tỷ USD, tăng 24% so với cùng kỳ năm 2014 và chiếm 62% tổng kim ngạch nhập khẩu cả nước. Tính chung trong quý I, các DN FDI đã xuất siêu 1,98 tỷ USD.


Mặt trái của dòng vốn FDI


Tuy nhiên, theo các chuyên gia kinh tế đánh giá bên cạnh những mặt tích cực của luồng vốn ngoại này cho nền kinh tế nhìn thấy. Cũng nhìn thấy rõ những hệ lũy mặt trái đang dần hiện rõ đối với nền kinh tế Việt Nam như: Công nghệ tiên tiến còn ít; chuyển giá và trốn thuế; cơ cấu đầu tư chưa cân đối; tác động xấu đến môi trường; chiếm thế độc quyền trong một số ngành, ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh. Thậm chí theo khuyến cáo của Tiến sĩ Hoàng, nhiều mảng kinh doanh rất tiềm năng nhưng các doanh nghiệp trong nước không còn khả năng tiếp cận, khiến giả cả bị ảnh hưởng.


Theo TS. Morgenroth đến từ Viện Nghiên cứu Kinh tế - Xã hội Ailen, từ kết quả ước lượng bước đầu, có thể thấy đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam có ảnh hưởng tích cực nhất định đối với nền kinh tế Việt Nam nói chung và thị trường việc làm nói riêng. Chi tiêu đối với hàng hóa nội địa ngày càng tăng; số việc làm thứ cấp có thể được tạo ra từ tiêu dùng sản phẩm nội địa của doanh nghiệp FDI và người lao động trong các doanh nghiệp này càng tăng. Tuy nhiên, khi quy về tỷ lệ so sánh, kết quả ước lượng cho thấy số việc làm thứ cấp đang có xu hướng giảm dần. Và điều này sẽ phần nào có tác động không tốt trong lâu dài với nền kinh tế Việt Nam, TS. Morgenroth nói.


Còn theo ông Lê Quốc Phương – Phó Giám đốc Trung tâm Công nghiệp và Thương mại, Bộ Công Thương cho rằng, phụ thuộc quá lớn vào vốn FDI sẽ làm cho nền kinh tế ẩn chứa nhiều rủi ro. Theo ông Phương, vốn FDI chiếm từ 20-25%, có thời điểm lên tới gần 30% tổng vốn đầu tư toàn xã hội. “Đây là con số quá lớn trong khi con số này ở Trung Quốc là 3-4%, Thái Lan khoảng 10%”- ông thực sự lo ngại.

Các ý kiến chuyên gia khác cũng chung nhận định cho rằng, trong giai đoạn hiện nay tác động lan tỏa của doanh nghiệp FDI đến nền kinh tế đang bị chững lại do khả năng hấp thụ vốn FDI hạn chế, chậm phát triển công nghiệp phụ trợ, cơ cấu đầu tư chưa cân đối, chuyển giao công nghệ còn thấp... Điển hình là Canon Việt Nam có 70 nhà cung cấp linh kiện phụ tùng, nhưng chỉ có 10 DN Việt Nam, số còn lại là DN FDI hoạt động tại Việt Nam. Khả quan hơn là Honda Việt Nam có tỷ lệ nội địa hóa 40%, nhưng chủ yếu vẫn là do các DN FDI hoạt động tại Việt Nam cung cấp. Còn đối với Samsung, các DN Việt Nam chỉ cung cấp được 10% linh, phụ kiện.

Để khắc phục tình trạng trì trệ trên, các chuyên gia nhấn mạnh đến vai trò của khu vực kinh tế tư nhân, khẳng định chính đội ngũ doanh nghiệp này sẽ là hạt nhân giúp nền kinh tế phát triển. Và cũng khá trùng hợp khi Chính phủ cũng đã sớm nhận thức rõ điều này bằng việc ban hành nhiều biện pháp hỗ trợ khối doanh nghiệp này phát triển bằng các công cụ pháp lý như: Luật Đầu tư và Luật Doanh nghiệp sửa đổi, Nghị định về đầu tư theo hình thức hợp tác công tư…


Bên cạnh đó, giải pháp được tính đến là cần phải nâng cao vai trò cầu nối của nhà nước trong việc xây dựng những mô hình liên kết phù hợp, thúc đẩy nâng cao vai trò trách nhiệm của DN FDI trong việc hỗ trợ, kết nối với DN trong nước. Cần hình thành các trung tâm nghiên cứu và phát triển công nghệ, đẩy mạnh chuyển giao công nghệ và ứng dụng công nghệ tiên tiến từ các doanh nghiệp FDI vào các doanh nghiệp trong nước. Đặc biệt, bản thân các DN trong nước phải có những đột phá về công nghệ nguồn, công nghệ cao cũng như nâng cao chất lượng nguồn nhân lực,… để có thể đủ lực liên kết chặt chẽ với DN FDI, đồng thời trở thành một mắt xích quan trọng trong chuỗi giá trị toàn cầu./.

Anh Phương