“Làm sạch” những rối rắm trong rừng điều kiện kinh doanh hiện tại

10:13:44 | 29/5/2015

Luật Doanh nghiệp (2014) đã có những kế thừa và tiếp tục phát huy hiệu quả và những tác động tích cực của những đợt cải cách lớn từ Luật Doanh nghiệp (1999), Luật Doanh nghiệp (2005) . Luật Doanh nghiệp (2014) đã tập trung đổi mới những vấn đề quan trọng liên quan đến thủ tục gia nhập thị trường, quản trị nội bộ doanh nghiệp, về doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp xã hội, con dấu, tổ chức lại, giải thể doanh nghiệp. Trong đó, có những nội dung hoàn toàn mới cần phải được hướng dẫn bằng Nghị định ngay sau khi Luật có hiệu lực. Dự thảo Nghị định hướng dẫn thi hành Luật Doanh nghiệp (2014) (Sau đây gọi là Dự thảo) đã hướng dẫn chi tiết nội dung liên quan đến doanh nghiệp xã hội, sử dụng mẫu dấu và một số nội dung khác.

Hội thảo lấy ý kiến doanh nghiệp đối với Dự thảo “Nghị định quy định chi tiết thi hành Luật doanh nghiệp và các quy định liên quan đến điều kiện kinh doanh trong hệ thống pháp luật về kinh doanh” do Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC) phối hợp với Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung Ương (CIEM) và VCCI tổ chức và qua tại HN đã thu hút gần 200 đại biểu tham dự.


Theo Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương (CIEM), có tới 1697 điều kiện kinh doanh trong tổng số 5.850 điều kiện kinh doanh được ban hành bởi các thông tư. Theo Luật Đầu tư, đến ngày 1/7/2015, các điều kiện này sẽ đương nhiên hết hiệu lực.


Ông Nguyễn Đình Cung, Viện trưởng CIEM cho biết, chỉ riêng các quy định về điều kiện kinh doanh đã lên tới gần 900 trang, chưa kể quy định về hồ sơ, trình tự, thủ tục, thời hạn và cơ quan có thẩm quyền xác nhận đáp ứng điều kiện kinh doanh. Đó là chưa nói đến hàng ngàn “công văn điều hành hàng năm” cũng đặt ra điều kiện kinh doanh cho doanh nghiệp. Khoảng 6.000 điều kiện kinh doanh do các bộ, ngành và ủy ban ban nhân dân tỉnh ban hành hết hiệu lực từ 1/7 tới, khi Luật Doanh nghiệp có hiệu lực. Vì vậy, theo ông Cung, các DN phải chủ động, nếu DN không đăng ký, không thông báo cho cơ quan quản lý thì kinh doanh vẫn hợp pháp vì luật không cấm. Nếu ai phạt thì phải kiện. Doanh nghiệp không nên đi hỏi cơ quan Nhà nước là có được kinh doanh không vì nếu hỏi là còn tư duy xin – cho., mà tư duy này cần phải bỏ.


Ông Trần Hữu Huỳnh, Chủ tịch Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam (VIAC) cho rằng, thời điểm này có thể áp dụng giải pháp một nghị định sửa nhiều nghị định về điều kiện kinh doanh, để đảm bảo đến ngày 1/7/2015, không chỉ các điều kiện kinh doanh không đáp ứng yêu cầu của Luật Đầu tư sẽ hết hiệu lực mà còn “làm sạch” những rối rắm trong rừng điều kiện kinh doanh hiện tại.

Tuy nhiên, theo ông Ngô Việt Hòa, Công ty Luật Russin&Vecchi, khó có thể có một giải pháp để xử lý triệt để tình trạng thiếu kiểm soát việc xây dựng, ban hành các điều kiện kinh doanh hiện nay.

Dự thảo Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật dường như đang có nỗ lực đưa ra cơ chế kiểm soát việc ban hành điều kiện kinh doanh từ phía cộng đồng doanh nghiệp, thông qua cơ chế tham vấn của cơ quan ban hành chính sách với VCCI. Đề xuất này, theo ông Hòa, nếu được thông qua, có thể tăng thêm tiếng nói phản biện từ doanh nghiệp, nhưng chắc vẫn chưa thể triệt để. Bởi lẽ, VCCI dù có tiếng nói lớn hơn nhưng quyền quyết định cuối cùng vẫn thuộc về cơ quan quản lý nhà nước.

Vì vậy ông Hòa cho rằng, nên chăng, trước mắt cần thành lập một “ban đặc nhiệm” về rà soát điều kiện kinh doanh giúp Chính phủ xử lý vấn đề này. Thành phần “Ban đặc nhiệm” cần đồng thời bao gồm đại diện giới chuyên gia, cộng đồng doanh nghiệp, và các nhà quản lý. “Ban đặc nhiệm” cần được trao quyền tối đa để “dọn dẹp” tất cả các điều kiện kinh doanh bất hợp pháp, bất hợp lý, bất bình đẳng…., cản trở hoạt động, quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp.

“Tất nhiên, điều quan trọng nhất là cần thay đổi tư duy con người, tư duy nhà quản lý về quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp. Chỉ khi tư duy thay đổi mới mong có sự thay đổi triệt để về xây dựng và thực thi pháp luật về điều kiện kinh doanh. Nếu không thay đổi tư duy, việc ban hành các cơ chế kiểm soát mới hay thành lập thêm các cơ quan kiểm soát sẽ không có nhiều tác dụng, đặc biệt trong dài hạn”, ông Hòa khẳng định.

ThS. Vũ Phương Đông- Giảng viên Khoa Pháp luật Kinh tế- Đại học Luật Hà Nội

Điều 3 Dự thảo đã cụ thể một số nội dung về hạn chế sở hữu chéo giữa các công ty được quy định tại Điều 189 Luật Doanh nghiệp (2014). Tuy nhiên, một số nội dung được quy định tại Điều 3 chưa rõ ràng: Khoản 1 Điều 3 quy định chung chung, tối nghĩa, không cụ thể vấn đề: “Công ty con theo quy định tại khoản 2 Điều 189 Luật doanh nghiệp là công ty đối với công ty mẹ trong các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 189 Luật doanh nghiệp.” Khoản 3 Điều 3 quy định về khái niệm sở hữu chéo: “Sở hữu chéo là việc đồng thời hai hoặc nhiều doanh nghiệp có sở hữu phần vốn góp, cổ phần của nhau.”. Khái niệm sở hữu chéo của nhiều doanh nghiệp chưa rõ ràng. Dự thảo cần quy định cụ thể sở hữu chéo trực tiếp của hai doanh nghiệp, sở hữu chéo gián tiếp của nhiều doanh nghiệp. Sở hữu chéo trực tiếp là hình thức công ty A sở hữu cổ phần, phần vốn góp của công ty B và ngược lại. Sở hữu chéo gián tiếp của nhiều doanh nghiệp là hình thức công ty A sở hữu cổ phần, phần vốn góp của công ty B, công ty B sở hữu cổ phần, phần vốn góp của công ty C, công ty C lại sở hữu cổ phần, phần vốn góp của công ty A.

Khoản 4 Điều 3 của Dự thảo quy định: “Công ty mẹ mà nhà nước có sở hữu từ 65% vốn điều lệ trở lên và các công ty con của công ty này không được cùng nhau góp vốn thành lập doanh nghiệp”. Quy định này chưa chặt chẽ và có phần mâu thuẫn với quy định tại Khoản 1 Điều17 Nghị định 69/2014/NĐ-CP[1]. Điều 17 Nghị định 69/2014/NĐ-CP cấm hoàn toàn hoạt động đầu tư góp vốn vào nhau giữa các công ty trong tập đoàn kinh tế, tổng công ty.


TS Hồ Thúy  Ngọc-Trọng tài viên VIAC

Hiện nay VN thiếu chế tài cho các hành vi vi phạm khi kinh doanh thương mại điện tử qua mạng xã hội và nền tảng thiết bị di động. Bên cạnh website thương mại điện tử, các mạng xã hội, đặc biệt là Facebook, được sử dụng rất phổ biến ở Việt Nam. S người sử dụng các diễn đàn mạng xã hội để mua sm trc tuyến ng tăng t 45% năm 2013 lên 53% năm 2014. Số doanh nghiệp sử dụng nền tảng di động như kênh liên lạc giữa nhà bán lẻ và người tiêu dùng ngày càng tăng. Do đó, quản lý các mạng xã hội kinh doanh TMĐT cũng như nền tảng di động cũng không kém phần cấp thiết. Hiện nay chưa có quy định quản lý TMĐT trên nền tảng di động cũng như chế tài tương ứng với hành vi vi phạm. Mặc dù Điều 6 Thông tư  47/2014/TT-BCT quy định việc quản lý hoạt động kinh doanh trên mạng xã hội nhưng lại không có các chế tài cụ thể cho hành vi vi phạm đối với kinh doanh trên mạng xã hội tại Nghị định 185/2013/NĐ-CP.

Bên cạnh đó, quy định chưa rõ ràng đối với danh sách các website TMĐT khuyến cáo người tiêu dùng thận trọng. Điều 63 của Nghị định cho phép Bộ Công thương công bố công khai trên cổng thông tin Quản lý hoạt động thương mại điện tử, danh sách các website thương mại điện tử bị phản ánh về việc có dấu hiệu vi phạm pháp luật. Câu hỏi đặt ra là đây là điều kiện quản lý nhằm tạo thuận lợi cho hoạt động kinh doanh hay là cơ sở để cạnh tranh không lành mạnh xuất hiện? Điều 63 không giới hạn những người có quyền phản ảnh website có dấu hiệu vi phạm pháp luật cũng không quy định chi tiết quy chế xác thực, dẫn tới rủi ro các đối thủ cạnh tranh lợi dụng phản ánh lẫn nhau.

 Anh Mai