14:31:44 | 12/6/2015
Nguồn nhân lực đóng vai trò then chốt
Theo ông Vương Đình Huệ, nguồn nhân lực là vấn đề then chốt đối với đổi mới sáng tạo. Đổi mới sáng tạo là nhiên liệu quý giá ươm mầm cho khởi nghiệp. Năng lực sáng tạo quốc gia phụ thuộc phần lớn vào chất lượng giáo dục và đào tạo; chính sách phát triển khoa học công nghệ và môi trường kinh doanh thuận lợi. Tuy nhiên, trên thực tế, năng lực khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo của VN hiện còn yếu; hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia còn non trẻ, hạn chế, công tác nghiên cứu và phát triển (R&D) vẫn chưa đặt ở vị trí xứng tầm trong khởi sự doanh nghiệp. Bên cạnh đó, môi trường kinh doanh, năng lực cạnh tranh quốc gia của Việt Nam còn ở thứ hạng rất khiêm tốn.

Ông Huệ cho biết, trong thời gian tới, các loại hình doanh nghiệp hoạt động theo Luật Doanh nghiệp sẽ ngày càng phát triển mạnh cả về số lượng và chất lượng, cả về quy mô lẫn hiệu quả kinh tế. Mọi khởi sự doanh nghiệp thành công sẽ có vị trí quan trọng lâu dài, bền vững, làm “vệ tinh” cho các doanh nghiệp lớn, đa quốc gia hoặc tự phát triển sang quy mô lớn hơn. Cùng với sự lớn mạnh của nhiều doanh nghiệp, tập đoàn lớn, các doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp tư nhân ngày càng phát triển là một động lực quan trọng của nền kinh tế.
“Tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế mạnh mẽ, sâu rộng thông qua các Hiệp định thương mại tự do đa tầng nấc giữa Việt Nam với các nước đã đặt ra những yêu cầu khắt khe về năng lực sáng tạo, trình độ công nghệ đối với doanh nhân Việt Nam khi khởi nghiệp; đồng thời đòi hỏi phải tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách tạo điều kiện, môi trường kinh doanh cho doanh nghiệp khởi nghiệp, nhất là nhóm chính sách về đầu tư, vườn ươm khoa học công nghệ, đầu tư nguồn nhân lực và đổi mới sáng tạo trong điều kiện chuyển đổi mô hình tăng trưởng dựa trên nâng cao năng suất lao động, chất lượng và sức cạnh tranh”, ông Huệ khẳng định.
Theo ông Huệ, có 5 nhóm giải pháp chính nhằm nâng cao hiệu quả doanh nghiệp khởi nghiệp. Đó là vấn đề đẩy mạnh nghiên cứu và triển khai (R&D) nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả, nâng cao giá trị gia tăng, tăng nhanh giá trị nội địa và tham gia có hiệu quả vào chuỗi giá trị toàn cầu đối với doanh nghiệp khởi nghiệp; các giải pháp nhằm đa dạng hóa các nguồn lực đầu tư tài chính (hỗ trợ tài chính từ ngân sách nhà nước; từ các nhà đầu tư riêng lẻ; vai trò của các quỹ đầu tư mạo hiểm), chính sách tiếp cận nguồn vốn của ngân hàng và các tổ chức tài chính vi mô để thúc đẩy các công ty khởi nghiệp tăng trưởng. Ngoài ra, còn là vấn đề xây dựng hệ sinh thái các doanh nghiệp khởi nghiệp (start-up) của Việt Nam, trong đó đề cao việc đổi mới từ “phòng thí nghiệm ra thị trường” với những công nghệ đột phá, tạo dựng thị trường thương mại hóa kết quả nghiên cứu trong các ngành như y tế, năng lượng sạch và giáo dục; đa dạng hóa các chương trình khởi sự kinh doanh dành cho thanh niên nông thôn, miền núi; vấn đề về công tác đào tạo doanh nhân, phát triển nguồn nhân lực cho khởi sự kinh doanh, giáo dục khởi nghiệp ngay từ các bậc học phổ thông.
Tăng đào tạo khởi sự kinh doanh
“Thực trạng hoạt động khởi sự kinh doanh của Việt Nam thấp hơn các nước rất nhiều và thấp hơn năm 2013. Về phân theo độ tuổi, khả năng của người trẻ tuổi kém hơn người trung niên nên họ dễ thất bại hơn”, TS Lương Minh Huân, Viện phát triển DN- VCCI đã khẳng định như vậy khi công bố Báo cáo chỉ số khởi nghiệp 2014 tại Diễn đàn.
Theo ông Huân, tâm lý lo sợ rủi ro của người khởi nghiệp Việt Nam vẫn khá cao và điều này thể hiện sự lo sợ về rủi ro của nền kinh tế. Do đó, muốn giảm lo sợ thì cần tạo môi trường kinh doanh, tăng đào tạo khởi sự kinh doanh tốt hơn trong giáo dục. Cần trang bị những kiến thức về đào tạo để có kinh nghiệm tốt hơn khi khởi nghiệp cho các bạn trẻ.
Báo cáo chỉ số khởi nghiệp 2014 cho thấy, tỷ trọng khởi nghiệp trong công nghiệp chế biến cao thứ nhất; tỷ lệ từ bỏ kinh doanh ở người Việt Nam thấp hơn các nước, điều này có nghĩa là khả năng bám trụ của doanh nghiệp Việt tốt hơn (có khoảng 100 người tham gia kinh doanh thì chỉ có khoảng 23 người bỏ. Lý do bỏ là vì sức khỏe cá nhân, do gia đình, do vấn đề tài chính; một số là do vấn đề lợi nhuận; số khác là do tìm thấy cơ hội kinh doanh và việc làm khác).
Theo báo cáo, điều kiện kinh doanh của Việt Nam năm 2014 không có nhiều thay đổi so với năm 2013. Trong 13 chỉ số thì có 3 chỉ số trên mức trung bình, 3 chỉ số thấp nhất là: chương trình hỗ trợ Chính phủ, giáo dục phổ thông, độ mở của thị trường nội địa.
Dựa trên những chỉ số đó, TS Lương Minh Huân và nhóm nghiên cứu đã đề ra một số khuyến nghị và đề xuất: đó là VN cần cải thiện các điều kiện kinh doanh; xây dựng và hoàn thiện các chương trình hỗ trợ khởi nghiệp và phát triển kinh doanh. Đặc biệt, cần thực hiện chương trình phổ cập kiến thức, kỹ năng khởi sự doanh nghiệp cho các cá nhân muốn khởi sự, nhất là thanh niên, kể cả đối với hộ kinh doanh cá thể.
Báo cáo chỉ số khởi nghiệp 2014 được dựa trên Chỉ số khởi nghiệp toàn cầu – GEM được khởi đầu năm 1999, với sự tham gia của 10 nước phát triển. Hiện nay nghiên cứu Chỉ số Khởi nghiệp toàn cầu đã thu hút được khoảng 100 nước tham gia. Nghiên cứu lớn nhất về khởi nghiệp là vào năm 2014 phỏng vấn được 206 nghìn người, đại diện cho 73 quốc gia, chiếm 72,4% dân số thế giới và 90% GDP của thế giới. Tất cả các hoạt động nhằm tạo việc làm và mang lại thu nhập cho mình hoặc cho người khác đều là các hoạt động về kinh doanh (trừ trong lĩnh vực nông nghiệp).
|
Ngài David Devine - Đại sứ đặc mệnh toàn quyền Cộng hòa Canada tại Việt Nam Dưới sự lãnh đạo của VCCI, chỉ số khởi nghiệp đã được đánh giá một cách khái quát nhất. Các doanh nhân chính là động lực để phát triển nền kinh tế, doanh nhân là những người tạo ra công ăn việc làm cho người lao động, tạo ra nền kinh tế của đất nước, họ cũng giải quyết các tồn tại của nền kinh tế. Việc tiếp cận bộ chỉ số đóng vai trò quan trọng để có thể hiểu thêm về tình hình của nền kinh tế Việt Nam. Việc hỗ trợ môi trường kinh doanh công bằng, minh bạch, thuận lợi là rất quan trọng. Hệ thống giáo dục cũng phải nhấn mạnh đến tinh thần khởi nghiệp. Người học cũng chuẩn bị được tinh thần khởi nghiệp để biết cách học hỏi những sai lầm và rút kinh nghiệm từ quá khứ để phát triển. Ông Siri Roland Xavier - Ban Điều hành Hiệp hội các nhà nghiên cứu kinh doanh toàn cầu Sắp tới Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) ra đời. Chúng tôi đã thực hiện khảo sát nhỏ đối với các DN về AEC thì thấy rằng, có 36% đồng ý hoặc hoàn toàn đồng ý về tăng mức độ cạnh tranh của AEC; 35% đồng ý hoặc hoàn toàn đồng ý về câu hỏi AEC có dễ dàng khởi nghiệp và hoạt động hơn; 34% đồng ý hoặc hoàn toàn đồng ý ý với câu hỏi AEC có lợi cho các doanh nghiệp. Với khảo sát này có nghĩa là khi AEC bắt đầu có hiệu lực thì có nhiều người chưa biết hoặc chưa hiểu về sự vận hành của AEC để tìm kiếm cơ hội từ điều này. Với AEC thì chúng ta phải đặt ra và cung cấp cho khởi sự doanh nghiệp để họ tìm ra cơ hội, biết được lộ trình tổng thể để chọn lựa và thực hiện khởi sự doanh nghiệp của mình. Những nước phát triển dựa trên nguồn lực trong khu vực Đông Nam Á có thể làm gì? Cần phải chú trọng giáo dục và tuyển sinh cho giáo dục tổng thể, bao gồm giáo dục về kinh doanh. Trong đó cần xác định và trọng tâm vào các lĩnh vực kinh doanh quan trọng như một phần của chính sách tổng thể cho trung hạn và dài hạn; gắn bình đẳng giới và thu nhập trong những nỗ lực kinh doanh, do đó cung cấp các cơ hội bình đẳng cho sự tham gia và hỗ trợ các nữ doanh nhân; đồng thời nhập khẩu công nghệ nhưng cũng thích ứng với công nghệ để tăng cường năng lực và hiệu quả của địa phương; giảm các hoạt động giá trị gia tăng thấp và đầu tư vào các cơ hội học tập bằng cách khuyến khích và tham gia vào các khát vọng kinh doanh. Ông Võ Duy Khương – Phó Chủ tịch Doanh nhân TP Đà Nẵng Riêng ở Việt Nam, chúng ta phát động hoạt động khởi nghiệp còn nặng tính hình thức, mới dừng lại ở số lượng chưa quan tâm tới chất lượng nên còn chưa đạt được kết quả đề ra. Ở Đà Nẵng mỗi năm có tới 3000 sinh viên ra trường, nhưng số DN không đủ để đáp ứng nhu cầu lao động nên số lượng sinh viên ra trường thất nghiệp rất nhiều. Nhiều sinh viên chưa tính đến việc khởi sự DN. Trong khi đó, ở các nước, sinh viên đã lập nghiệp từ năm thứ nhất. Văn hóa khởi sự DN ở VN cũng chưa nhiều nên chưa tạo ra được sức mạnh cộng đồng khởi nghiệp. Do đó, cấp thiết phải xây dựng văn hóa khởi nghiệp trong toàn xã hội. Mặt khác, người Việt Nam có tâm lý là cần nghề nghiệp an toàn, sợ rủi ro. Do đó, khi chọn trường đi học, bố mẹ thường hướng các em học ngành nghề, trường nào mà ra trường dễ xin việc. Chính phủ, bộ ngành, các địa phương cần tạo ra nhiều thuận lợi hơ nữa để hỗ trợ cho việc khởi sự DN, đồng thời, cần phải có vốn đầu tư ban đầu (Quỹ hỗ trợ) cho việc khởi nghiệp. Ngoài ra, ở các nước khởi sự DN đã được đưa vào thành khoa trong trường Đại học nhưng ở Việt Nam chưa có, vì vậy, cần đưa giáo dục khởi nghiệp vào chương trình học mới tạo ra được văn hóa DN. Ông Lưu Bích Hồ, Nguyên Viện trưởng Viện Chiến lược - Phát triển, Bộ Khoa học - Đầu tư Tâm lý sinh viên ra trường thường là làm thuê rồi mới khởi nghiệp. Tôi vẫn khuyên các em hãy đi làm thuê để lĩnh hội những kinh nghiệm rồi hãy nghĩ tới việc khởi sự DN. Thực tế, có hàng mấy trăm ngàn DN đang thất bại, ngừng hoạt động – đây mới là lực lượng cần phải vực dậy, tiếp lửa để họ khởi nghiệp lại. Điều quan trọng chính là nâng cao vai trò của Hiệp hội trong khởi sự DN. Hiện nay mới chỉ có VCCI là thể hiện được vai trò to lớn hỗ trợ còn các Hiệp hội khác chưa chú trọng và có nhiều hoạt động cho khởi nghiệp. Mặt khác, về nguồn vốn thì vốn của nhà nước bị hạn chế nhưng vốn của các loại quỹ, các tổ chức thì vẫn có, quan trong là làm thế nào để huy động được nhằm thực hiện cho công tác này. Nhà nước cần phải lập ngay một chương trình Quốc gia khởi nghiệp, trong đó phải có kế hoạch, mục đích, hành động, có giải pháp và phải có người làm thực sự. |
Anh Mai
từ ngày 18 – 19/12/2025
VCCI