16:02:38 | 23/7/2015
Trong khi các ngành kinh tế khác còn chịu ảnh hưởng lớn của suy thoái kinh tế thế giới, nông nghiệp là ngành duy nhất có thặng dư xuất khẩu giai đoạn 2010 - 2014. Năm 2012 và 2013, ngành nông nghiệp chỉ tăng trưởng 2,6%, đến năm 2014, ngành nông nghiệp đạt tốc độ tăng trưởng 3,3%, đánh dấu sự hồi phục và tăng trưởng trở lại của ngành nông nghiệp Việt Nam.
Gia tăng giá trị nông sản
Năm 2014, giá trị kim ngạch xuất khẩu nông - lâm - thủy sản cả nước đạt 30,8 tỷ USD, tăng 11,2% so với năm 2013, tiếp tục là lĩnh vực tạo ra giá trị thặng dư cao với 9,5 tỷ USD. Trong đó, nhiều mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu tăng mạnh: cà phê tăng 32,2%, hạt điều: 21,1%, hồ tiêu: 34,1%, rau quả: 34,9%, thủy sản: 18%, lâm sản và đồ gỗ: 12,7% và gạo (không kể xuất khẩu tiểu ngạch).
.jpg)
Bên cạnh quy mô sản xuất nhỏ, năng suất lao động thấp, hệ thống quản lý chất lượng và bảo quản sau thu hoạch còn nhiều vấn đề… sản xuất nông nghiệp Việt Nam đang xuất hiện những khó khăn, thách thức mới.
Nông nghiệp tiếp tục phải đối mặt khả năng tái sản xuất mở rộng của nông dân giảm sút. Kinh tế thế giới và trong nước phục hồi còn chậm. Các ngân hàng thương mai gặp khó khăn vì nợ xấu, doanh nghiệp chậm tiếp cận nguồn vốn khiến lợi nhuận giảm phải cắt giảm sản xuất. Kinh tế tăng trưởng chậm, nhu cầu tiêu dùng trên thị trường giảm làm giá nông sản giảm trong khi giá vật tư, nhiên liệu vẫn tăng.
Quá trình biến đổi khí hậu, tình trạng thiên tai trong tương lai sẽ diễn ra ngày càng tăng với nhiều diễn biến phức tạp hơn. Tình trạng sạt lở, lũ lụt, ngập mặn, hạn hán tại một số vùng sẽ xảy ra với mức độ nghiêm trọng hơn ảnh hưởng không nhỏ tới đời sống sinh hoạt và sản xuất của người dân. Các biểu hiện thời tiết cực đoan có nhiều khả năng gây ảnh hưởng tiêu cực cho sản xuất nông nghiệp. Rủi ro trong sản xuất nông nghiệp tăng.
Ô nhiễm và suy thoái môi trường là nguy cơ hiện hữu. Tăng trưởng nông nghiệp của Việt Nam thời gian qua lạm dụng phân bón, hóa chất bảo vệ, thuốc thú y, chất kích thích tăng trưởng… gây tác động xấu đến môi trường, làm tăng mức độ ô nhiễm và suy yếu nguồn tài nguyên thiên nhiên. Tính trạng ô nhiễm môi trường nếu không có biện pháp ngăn chặn kịp thời sẽ mang lại những hậu quả hết sức nghiêm trọng, đe dọa sản xuất trong nước và khả năng cạnh tranh của nông sản Việt Nam trên thị trường.
Mặc dù, nhu cầu tiêu dùng chung trên thế giới đang tăng trưởng chậm do hậu quả khủng hoảng kinh tế thế giới, nhưng nông sản với chất lượng cao đảm bảo vệ sinh an toàn luôn luôn có thị trường và giá tốt. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng mạnh, sản xuất nông nghiệp chuyển sang hướng có giá trị gia tăng cao và chất lượng tốt thì cơ hội để Việt Nam liên kết với các doanh nghiệp và quốc gia khác để mở rộng thị trường nông sản là rất to lớn. Trong năm 2015, AFTA chính thức bắt đầu phát huy hết tác dụng, Hiệp định Đối tác Kinh tế Chiến lược xuyên Thái Bình dương (TPP) đang đàm phán cũng đang mở ra những thời cơ mới.
Phát triển gắn với thị trường
Để nông nghiệp phát triển bền vững, cần phải tái cơ cấu nền nông nghiệp tập trung mạnh vào tái cơ cấu đầu tư công và dịch vụ công trong nông nghiệp, tạo ra môi trường thuận lợi cho hình thành có hiệu quả và bền vững chuỗi giá trị nông sản dựa trên lợi thế so sánh của từng vùng, từng địa phương.
Điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp theo hướng gắn với thị trường tiêu thụ. Đối với những nông sản có lợi thế về thị trường, chẳng hạn như mặt hàng lúa gạo, cần được đầu tư đẩy mạnh, bằng việc tăng sản xuất lên mức tối đa. Chính phủ có chính sách hỗ trợ cho nông dân về vốn, khoa học - công nghệ, vật tư, thuốc bảo vệ thực vật và giống nếu họ mở rộng diện tích lúa.
Thực hiện quy hoạch nông nghiệp theo hướng dựa vào thị trường mở, không nên cố định diện tích lúa, nên bảo tồn diện tích đất nông nghiệp. Cần tạo điều kiện cho người sử dụng đất quyết định phương thức sử dụng từng loại đất phù hợp theo tín hiệu thị trường hơn là cố định phương thức sử dụng cho từng loại đất.
Đẩy mạnh sản xuất lương thực, thực phẩm, nhất là ở vùng sâu và xa. Chú trọng các giải pháp bảo đảm an ninh dinh dưỡng hơn là chỉ tập trung vào phát triển lương thực, thực hiện các giải pháp tạo việc làm. Cần đầu tư phát triển hệ thống hỗ trợ thương mại; đẩy mạnh hiện đại hoá hệ thống thuỷ lợi, đẩy nhanh tốc độ cơ giới hoá, điện khí hoá và thông tin liên lạc; chuyển đổi cơ cấu giữa trồng trọt, vật nuôi theo hướng tăng mạnh chăn nuôi và dịch vụ đồng thời duy trì tăng trưởng trồng trọt ở mức hợp lý.
Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ vốn để nông dân mua trang thiết bị, máy móc, vật tư phục vụ cho việc nâng cao năng suất phát triển nông nghiệp. Để chương trình kích cầu nông nghiệp đạt hiệu quả hơn, nhằm tăng năng suất, giảm giá thành nông sản, Chính phủ cần hỗ trợ nông dân mua máy móc, vật tư đầu tư vào sản xuất, có thể bằng hình thức bán chịu cũng như các giải pháp nâng cao chất lượng nông sản, giảm tổn thất sau thu hoạch.
Ngành nông nghiệp cũng cần tích cực mở rộng thị trường tiêu thụ nông sản trong và ngoài nước. Cần kích thích tăng sức mua của thị trường nông thôn, khai thác các tiềm năng về sức mua của khu vực này. Hỗ trợ phục vụ sản xuất nông nghiệp như: phân bón, giống, thuốc bảo vệ thực vật, máy móc cơ khí... Hỗ trợ mua hàng tiêu dùng, vật liệu xây dựng.
Nông sản xuất khẩu phải giữ vững và phát triển thị trường đang có, đồng thời tích cực mở rộng, tìm kiếm thị trường mới. Tập trung triển khai các hoạt động xúc tiến thương mại các mặt hàng Việt Nam có lợi thế và các nước đang cần như gạo, rau quả, thủy sản...
Trong bối cảnh bắt đầu từ năm 2015, có tới 93% các loại thuế được đưa về 0% khi các nước nhập khẩu vào Việt Nam và ngược lại; 7% thuế còn lại đến năm 2018 đưa về 0%, với các thị trường Mỹ và châu Âu, đến năm 2020 các mặt hàng nhập khẩu, xuất khẩu cũng đưa về mức thuế 0, các mặt hàng Việt Nam, đặc biệt là nông sản sẽ có nhiều cơ hội hơn nữa thâm nhập vào các thị trường lớn, giúp nâng cao giá trị hàng hóa của Việt Nam.
Cần chủ động ứng phó hiệu quả với biến đổi khí hậu, tập trung vào các lĩnh vực: nâng cao năng lực quản lý và ứng phó rủi ro liên quan đến thời tiết và giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu cũng như các rủi ro về thị trường. Cải thiện hệ thống dự báo, cảnh báo sớm và gắn kết hệ thống này với dịch vụ tư vấn nông nghiệp; thay đổi phương pháp canh tác và lựa chọn giống phù hợp với các vùng đất có những biến đổi khác nhau về khí hậu; xây dựng năng lực nghiên cứu và phát triển để có thể giải quyết được những thách thức mới nảy sinh của quá trình biến đổi khí hậu và nước biển dâng; thúc đẩy thị trường bảo hiểm nông nghiệp, tăng cường khả năng ứng phó của nông dân đối với rủi ro…
Để thúc đẩy phát triển nông nghiệp theo hướng bền vững đòi hỏi phải có sự đồng thuận và nỗ lực to lớn của Chính phủ, các ngành, các địa phương và đặc biệt là của chính những người nông dân và cộng đồng dân cư nông thôn. Phải đặt người nông dân vào vị trí trung tâm và vai trò chủ thể để thực hiện tái cơ cấu nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới; có cơ chế, chính sách thúc đẩy ứng dụng sâu rộng khoa học và công nghệ, nhất là công nghệ sinh học, công nghệ thông tin vào sản xuất, quản lý nông nghiệp; phát triển các hình thức hợp tác, liên kết sản xuất giữa nông dân với nông dân và giữa nông dân với doanh nghiệp, hình thành cánh đồng mẫu lớn, gắn sản xuất với chế biến và tiêu thụ.
Ths. Đỗ Thúy Nga
từ ngày 18 – 19/12/2025
VCCI
từ 11/11/2025 đến 30/11/2025
VCCI