11:47:15 | 10/8/2015
Việt Nam hàng năm trung bình có khoảng 1,5-1,6 triệu thanh niên bước vào tuổi lao động, một mặt tạo cơ hội cho nền kinh tế có bước phát triển mạnh mẽ và cũng tạo sức ép lớn về giải quyết việc làm và đào tạo nghề nghiệp.
Vấn đề chất lượng
Trong khối ASEAN, Việt Nam nằm ở nửa cuối của bảng xếp hạng đánh giá về phát triển nguồn nhân lực. Một trong số những vấn đề khó giải quyết nhất cho việc kinh doanh tại Việt Nam là lực lượng lao động không được đào tạo đầy đủ.

Phó Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp Châu Âu tại Việt Nam (EuroCham) - Tomaso Andreatta phát biểu tại Diễn đàn doanh nghiệp 2015 mới đây cho biết: "Việt Nam có một lực lượng lao động đầy tiềm năng, tuy nhiên, nếu Việt Nam muốn hướng tới các ngành kinh tế kỹ thuật và dịch vụ có giá trị gia tăng cao hơn thì cần có lực lượng lao động được đào tạo một cách phù hợp”. Trong khối ASEAN, Việt Nam nằm ở nửa cuối của bảng xếp hạng đánh giá về phát triển nguồn nhân lực.
Trong một cuộc khảo sát của Báo cáo Diễn đàn Kinh tế Thế giới 2014-2015, hơn 10% số người được yêu cầu chọn 5 vấn đề khó giải quyết nhất cho việc kinh doanh tại Việt Nam xác định rằng, lực lượng lao động không được đào tạo đầy đủ là một trong những vấn đề chính.
Theo kết quả điều tra dân số đến tháng 02/2014, Việt Nam có gần 90 triệu người. Điều này phản ánh nguồn nhân lực của Việt Nam đang phát triển dồi dào. Trong đó, nguồn nhân lực nông dân có gần 63 triệu người, chiếm hơn 70% dân số; nguồn nhân lực công nhân là 9,5 triệu người, chiếm gần 10% dân số; nguồn nhân lực trí thức, tốt nghiệp từ đại học, cao đẳng trở lên là hơn 2,5 triệu người, chiếm khoảng 2,15% dân số; nguồn nhân lực từ các doanh nghiệp khoảng 2 triệu người, trong đó, khối doanh nghiệp trung ương gần 1 triệu người….
Hiện nay ở Việt Nam đang hình thành 2 loại hình nhân lực: nhân lực phổ thông và nhân lực chất lượng cao. Nhân lực phổ thông hiện tại vẫn chiếm số đông, trong khi đó, tỷ lệ nhân lực chất lượng cao lại chiếm tỷ lệ rất thấp. Cái thiếu của Việt Nam hiện nay không phải là nhân lực phổ thông, mà là nhân lực chất lượng cao. Theo số liệu thống kê năm 2010, trong số 20,1 triệu lao động đã qua đào tạo trên tổng số 48,8 triệu lao động đang làm việc, thì chỉ có 8,4 triệu người có bằng cấp, chứng chỉ do các cơ sở đào tạo trong và ngoài nước. Số người từ 15 tuổi trở lên được đào tạo nghề và chuyên môn kỹ thuật rất thấp, chiếm khoảng 40%. Cơ cấu đào tạo hiện còn bất hợp lý được thể hiện qua các tỷ lệ: Đại học và trên Đại học là 1, trung họcchuyên nghiệp là 1,3 và công nhân kỹ thuật là 0,92; trong khi trên thế giới, tỷ lệ này là 1-4-10. Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới (WB), Việt Nam đang rất thiếu lao động có trình độ tay nghề, công nhân kỹ thuật bậc cao và chất lượng nguồn nhân lực ViệtNam cũng thấp hơn so với nhiều nước khác. Nếu lấy thang điểm là 10 thì chất lượng nhân lực của Việt Nam chỉ đạt 3,79 điểm, xếp thứ 11/12 nước Châu Á tham gia xếp hạng của WB – 2010, trong khi Hàn Quốc là 6,91; Ấn Độ là 5,76; Malaysia là 5,59; Thái Lan là 4,94...
Cơ cấu phân bổ lao động theo ngành nghề cũng mất cân đối. Các ngành kỹ thuật - công nghệ, nông - lâm -ngư nghiệp ít và chiếm tỉ trọng thấp, trong khi đó các ngành xã hội luật, kinhtế, ngoại ngữ... lại quá cao. Nhiều ngành nghề, lĩnh vực có tình trạng vừa thừa vừa thiếu nhân lực. Những lĩnh vực hiện đang thiếu lao động như: Kinh doanh tài chính, ngân hàng, kiểm toán, công nghệ thông tin, điện tử, viễn thông, cơ khí chế tạo...
Phát triển nguồn nhân lực tại Việt Nam đang đứng trước những yêu cầu chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ chủ yếu theo chiều rộng sang phát triển hợp lý giữa chiều rộng và chiều sâu; tăng cường ứng dụng khoa học và công nghệ; chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thực hiện tái cấu trúc nền kinh tế; tăng nhanh hàm lượng nội địa hóa, giá trị gia tăng và sức cạnh tranh của sản phẩm, doanh nghiệp và của nền kinh tế; tăng năng suất lao động, tiết kiệm trong sử dụng mọi nguồn lực…
Nhu cầu đào tạo nghề nghiệp của người lao động ngày càng cao hơn cả về số lượng và chất lượng do mức thu nhập ngày càng cao, do chuyển dịch cơ cấu kinh tế, quá trình đô thị hoá ngày càng mạnh mẽ, sự xuất hiện của những ngành, nghề mới,…sự phát triển nguồn nhân lực cần đáp ứng yêu cầu phát triển cân bằng hơn giữa các vùng miền, xuất phát từ yêu cầu giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm an ninh, quốc phòng.
Yêu cầu cấp bách phát triển nguồn nhân lực
Theo Quyết định số 1216/QĐ, ngày 22-7-2011 của Thủ tướng Chính phủ, về việc phê duyệt quy hoạch phát triển nhân lực Việt Nam giai đoạn 2011-2020, thì trong 10 năm tới cần tăng nhanh tỷ lệ nhân lực qua đào tạo trong nền kinh tế với cơ cấu hợp lý. Tổng số nhân lực qua đào tạo năm 2015 là khoảng 30,5 triệu người, chiếm khoảng 55,0% trong tổng số 55 triệu người làm việc trong nền kinh tế đất nước và năm 2020, có khoảng gần 44 triệu người, chiếm khoảng 70,0% trong tổng số gần 63triệu người làm việc trong nền kinh tế.
Về cơ cấu bậc đào tạo, năm 2015, số nhân lực qua đào tạo ở bậc sơ cấp nghề khoảng 18 triệu người, chiếm khoảng 59% tổng số nhân lực đã qua đào tạo của nền kinh tế; bậc trung cấp khoảng 7 triệu người, khoảng 23%; bậc cao đẳng gần 2 triệu người khoảng 6%; bậc đại học khoảng 3,3 triệu người, khoảng11%; bậc trên đại học khoảng 200 nghìn người, khoảng 0,7%. Năm 2020, số nhân lực đào tạo ở bậc sơ cấp nghề khoảng gần 24 triệu người, khoảng 54%, tổng số nhân lực qua đào tạo của nền kinh tế; bậc trung cấp nghề khoảng gần 12triệu người, khoảng 27%; bậc cao đẳng hơn 3 triệu người, khoảng 7%; bậc đại học khoảng 5 triệu người, khoảng11% và bậc trên đại học khoảng 300 nghìn người, khoảng 0,7%.
Phát triển nhân lực đến năm 2020 của các ngành, lĩnh vực, khu vực như công nghiệp; xây dựng; dịch vụ; nông, lâm, ngư nghiệp; giao thông vận tải; tài nguyên, môi trường; du lịch; ngânhàng; tài chính; công nghệ thông tin; năng lượng hạt nhân; đào tạo nhân lực để đi làm việc ở nước ngoài đã được quy định cụ thể trong Quyết định 1216.
Đến năm 2015, cả nước có khoảng từ 1,5 đến 2 triệu doanh nhân. Tỷ lệ doanh nhân có trình độ cử nhân, kỹ sư, thạc sĩ, tiến sĩ chiếm khoảng 78% tổng số đội ngũ doanh nhân. Đến năm 2020, cả nước có khoảng từ 2,5 đến 3 triệu doanh nhân. Tỷ lệ doanh nhân có trình độ cử nhân, kỹ sư, thạc sĩ, tiến sĩ chiếm khoảng 80% trong tổng số đội ngũ doanh nhân.
Nhằm đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập quốc tế, từ bối cảnh trong nước, phát triển nguồn nhân lực đang đứng trước những yêu cầu: Bảo đảm nguồn nhân lực là một trong ba khâu đột phá cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, Việt Nam phải có đủ nhân lực để có khả năng tham gia vào quá trình vận hành của các chuỗi giá trị toàn cầu trong xu thế các tập đoàn xuyên quốc gia có ảnh hưởng ngày càng lớn.
Nguồn nhân lực phải có năng lực thích ứng với tình trạng nguồn tài nguyên thiên nhiên ngày càng khan hiếm và sự sụt giảm các nguồn đầu tư tài chính; có khả năng đề ra các giải pháp gia tăng cơ hội phát triển trong điều kiện thay đổi nhanh chóng của các thế hệ công nghệ, tương quan sức mạnh kinh tế giữa các khu vực.
Nhân lực Việt Nam phải được đào tạo để có khả năng tham gia lao động ở nước ngoài do tình trạng thiếu lao động ở nhiều quốc gia phát triển để phát huy lợi thế của thời kỳ dân số vàng; đồng thời có đủ năng lực để cùng với cộng đồng quốc tế giải quyết những vấn đề mang tính toàn cầu và khu vực.
Ths. Đỗ Thúy Nga
từ ngày 18 – 19/12/2025
VCCI
từ 11/11/2025 đến 30/11/2025
VCCI