Cần mạnh mẽ hơn trong xử lý rác ở các đô thị

11:10:00 | 28/9/2015

Theo số liệu của Tổng Cục Môi trường tại thời điểm năm 2015, khối lượng chất thải rắn tại các đô thị cả nước phát sinh khoảng 37.000 tấn/ngày, riêng thành phố Hà Nội là 5.500 tấn/ngày và chủ yếu được xử lý theo công nghệ chôn lấp (3700 tấn/ngày). Với việc mạnh dạn đầu tư Nhà máy xử lý rác (XLR) Sơn Tây theo công nghệ mới đốt rác có thu hồi nhiệt với công suất 700 tấn/ngày, Công ty cổ phần dịch vụ môi trường Thăng Long đã góp phần xử lý được khoảng 10% lượng rác thải của thành phố Hà Nội… Ông Nguyễn Phúc Thành- Chủ tịch HĐQT, Tổng Giám đốc Công ty cổ phần dịch vụ môi trường Thăng Long chia sẻ với phóng viên Tạp chí Vietnam Business Forum: “Rác thải đô thị ở Việt Nam đang là một mối nguy cơ và để XLR cũng như giải quyết ô nhiễm môi trường một cách bền vững, các Bộ, ngành, địa phương cần vào cuộc quyết liệt hơn, trước hết là có những cơ chế, chính sách để giải quyết vấn đề XLR ở các đô thị”... Ngô Khuyến thực hiện.

Là một trong những doanh nghiệp tiên phong trong các hoạt động dịch vụ môi trường và mạnh dạn đầu tư nhà máy theo công nghệ mới vào lĩnh vực xử lý  rác thải, ông đánh giá thế nào về thực trạng và giải pháp XLR thải ở các đô thị tại Việt Nam hiện nay?

Cùng với tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, các đô thị Việt Nam đã và đang là nơi tập trung dân số lớn do di dân từ vùng nông thôn ra vùng đô thị để làm việc trong các khu công nghiệp mới. Quá trình này hình thành nhiều đô thị lớn có mật độ dân cư tập trung cao và nhiều chuỗi đô thị nhỏ, nơi có các khu công nghiệp mới. Dân cư đô thị tăng nhanh, mức sống người lao động được cải thiện sẽ kéo theo lượng rác tăng mạnh tại các đô thị từ 10-15% mỗi năm. Lượng xả rác bình quân một người tại các đô thị đạt khoảng 0,5kg/người/ngày từ năm 2005 đến nay đã đạt mức 0,8kg/người/ngày làm tổng lượng chất thải rắn sinh hoạt tăng hàng năm theo cấp số cộng, đã dẫn đến tình trạng quá tải toàn diện từ công tác thu gom đến công tác XLR.

Mức độ quá tải càng nặng nề hơn khi các giải pháp XLR chậm được đầu tư, thay đổi. Phần lớn các đô thị vẫn sử dụng công nghệ chôn lấp lạc hậu, tốn nhiều diện tích đất, thời gian rác phân hủy kéo dài từ 150-300 năm. Cùng với những ô nhiễm phát sinh như côn trùng, nước rỉ rác trong quá trình chôn lấp đã gây ảnh hưởng lớn lâu dài tới môi trường và đời sống dân cư gần khu XLR.

Thực hiện chủ trương xã hội hóa trong công tác bảo vệ môi trường và XLR thải đô thị, trong những năm qua có nhiều doanh nghiệp đã đầu tư nhà máy XLR với những quy mô, công nghệ, mô hình,… khác nhau. Năm 2012, Công ty đã đầu tư Dự án đầu tư xây dựng nhà máy đốt rác quy mô công nghiệp. Đâu sự khác biệt của Nhà máy với các nhà máy XLR thải khác trong cả nước thưa ông?

Tại Việt Nam đã có một số nhà máy XLR được đầu tư từ các nguồn vốn ODA, vốn xã hội hóa, vốn ngân sách trung ương và địa phương… với các quy mô từ lớn (2.000-5.000 tấn/ngày) tới nhỏ (50-100 tấn/ngày) và bằng nhiều công nghệ khác nhau. Nhà máy XLR bằng công nghệ đốt rác có thu hồi nhiệt của Công ty môi trường Thăng long đã đi vào hoạt động từ năm 2012. Tính đến hết quý II/2015, Nhà máy đã xử lý được 290.000 tấn rác, đạt chất lượng môi trường theo quy chuẩn QCVN: 19/2009/BTNMT. Đây là sản phẩm khoa học công nghệ được ứng dụng thành công vào sản xuất ở quy mô công nghiệp đầu tiên tại Việt Nam.

Khác với công nghệ XLR của các nhà máy tại nhiều địa phương hiện nay, Nhà máy XLR có thu hồi nhiệt của Công ty cổ phần dịch vụ môi trường Thăng Long có công nghệ để xử lý cho chính thành phần rác chưa phân loại của Việt Nam, cho chính phương thức thu gom rác thủ công, gián đoạn các đơn vị môi trường đang thực hiện và phù hợp với điều kiện khí hậu nhiệt đới gió mùa với số ngày mưa trên 140 ngày/năm.

Bên cạnh đó, vật liệu và thiết bị XLR của Công ty được lựa chọn phù hợp với thành phần rác, môi trường ăn mòn và điều kiện vận hành với cường độ cao 24/24h. Hơn thế, công nghệ đốt rác có thu hồi nhiệt của Công ty mang tính sáng tạo với nhiều ưu điểm nổi bật về khả năng tận thu nhiệt sạch để nâng nhiệt trị rác từ 900 kcal/kg lên 1.700 kcal/kg đủ để rác tự cháy. Thiết bị trao đổi nhiệt trong công nghệ này là thiết bị thân thiện với môi trường, tiết kiệm nước tối đa so với các thiết bị trao đổi nhiệt thông thường các nhà máy XLR khác đang áp dụng. Ngoài ra, suất đầu tư của nhà máy XLR Sơn Tây so với suất đầu tư của các nhà máy XLR khác cùng công nghệ chỉ bằng 40% so với công nghệ nước ngoài cùng chất lượng nên rất phù hợp với điều kiện kinh tế của Việt Nam.

Xin ông cho biết một số chỉ tiêu SX-KD nổi bật của công ty trong năm 2015?

Với 7 công ty thành viên và 2 đơn vị trực thuộc, Công ty cổ phần dịch vụ môi trường Thăng Long đang hoạt động trên nhiều lĩnh vực: dịch vụ duy trì vệ sinh môi trường đô thị;  chiếu sáng đô thị; nhập khẩu, sản xuất và cung cấp thiết bị, xe chuyên dùng, tổng thầu EPC các công trình XLR,… Trong 5 năm gần đây, doanh thu của công ty luôn đạt tăng trưởng bình quân 20-25%, riêng năm 2015 dự kiến đạt > 500 tỷ đồng. Hiện tại, công ty còn tham gia 3 chương trình nghiên cứu khoa học công nghệ, gồm: Chương trình nghiên cứu KHCN cấp quốc gia về đốt rác tập trung quy mô lớn, Chương trình nghiên cứu KHCN về cơ giới hóa thu gom rác đô thị thay thế thu gom rác thủ công, và Chương trình nghiên cứu hoàn thiện công nghệ thu gom - vận chuyển - XLR nông thôn.  Ngoài ra, công ty còn là tổng thầu EPC 2 công trình XLR có tổng mức đầu tư gần 250 tỷ đồng.

Dưới góc độ doanh nghiệp, ông có ý kiến đóng góp với các cấp chính quyền về cơ chế - chính sách trong công tác bảo vệ môi trường?

Trước hết, Bộ Tài nguyên Môi trường và các cơ quan liên quan cần có quy định điều kiện các đơn vị XLR bằng phương pháp công nghiệp (không chôn lấp) được trực tiếp thu gom từ các hộ gia đình nhằm tạo ra chuỗi liên kết ứng dụng công nghệ đồng bộ trong công tác thu gom - vận chuyển - XLR nhằm loại bỏ các yếu tố ảnh hưởng đến thành phần và trọng lượng rác như bùn, đất, phế thải xây dựng, nước mưa,… và tiến tới phân loại rác tại nguồn. Bên cạnh đó, các Bộ, ngành, địa phương cần quy định cụ thể phương pháp tính chi phí XLR theo phương pháp công nghiệp và các cơ chế tài chính, thể hiện được chính sách ưu đãi vào giá XLR. Ngoài ra, các Bộ, ngành, địa phương cần xem xét hỗ trợ vốn đối ứng từ ngân sách địa phương cho các dự án đầu tư nhà máy XLR giúp doanh nghiệp có nguồn tài chính thực hiện.