Hiệu quả cao từ mô hình luân canh tôm – lúa

14:59:48 | 8/1/2016

Những năm gần đây tại Kiên Giang, nông dân đã chuyển đổi từ sản xuất hai vụ lúa năng suất thấp sang mô hình luân canh tôm - lúa đạt hiệu quả kinh tế khá cao. Với ưu điểm cho sản phẩm sạch, rủi ro dịch bệnh thấp, hiệu quả kinh tế cao và bền vững, mô hình tôm - lúa đang ngày càng khẳng định vai trò quan trọng trong sản xuất nông nghiệp địa phương.

Phát huy ưu thế mô hình chủ lực

Hiện Kiên Giang là tỉnh có diện tích nuôi tôm sú luân canh với trồng lúa lớn nhất cả nước với 77.866 ha (chiếm 20,4% diện tích đất trồng lúa); tập trung ở các huyện vùng ven biển, thiếu nước ngọt vào mùa khô như An Biên, An Minh, U Minh Thượng, Vĩnh Thuận. Năm 2015, ngành nông nghiệp tỉnh gặp nhiều khó khăn, nhất là đối với nghề nuôi tôm khi phải đối diện với dịch bệnh, thị trường tiêu thụ kém, giá tôm thương phẩm tụt giảm 40-50%, hiệu quả đầu tư thấp. Tuy nhiên dù diện tích và sản lượng tôm nuôi không đạt chỉ tiêu kế hoạch nhưng cũng tăng so với năm trước nhờ sản lượng tôm nuôi từ mô hình tôm - lúa đạt 30.058 tấn, năng suất bình quân 0,39 tấn/ha (mô hình nuôi tôm càng xanh trong ruộng lúa đạt năng suất 0,56 tấn/ha; nuôi tôm quảng canh cải tiến đạt năng suất 0,24 tấn/ha). Thực tế cho thấy phát triển mô hình 1 vụ lúa - 1 vụ tôm mang lại hiệu quả kinh tế cao gấp 2,2 lần so với sản xuất 2 vụ lúa, góp phần quan trọng tạo sự bền vững môi trường.


Ông Nguyễn Văn Tâm - Giám đốc Sở Nông nghiệp & Phát triển nông thôn (NN&PTNT) tỉnh Kiên Giang cho biết luân canh tôm - lúa đã được nhận diện là mô hình thủy sản bền vững và hạn chế rủi ro so với các mô hình nuôi trồng thủy sản khác. Tại Kiên Giang hiện nay, luân canh tôm - lúa một lần nữa chứng minh sự phát triển sản xuất bền vững, là mô hình chủ lực trong định hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế tại địa phương. Thành công của việc chuyển đổi mô hình này hoàn hoàn phù hợp với tình hình thực tế của tỉnh trong bối cảnh Chương trình ngọt hóa vùng bán đảo Cà Mau chưa được thực hiện.

Ngành nông nghiệp tỉnh quan tâm đến lịch thời vụ phù hợp với từng địa phương có mô hình luân canh tôm - lúa; xây dựng đội ngũ tuyên truyền, tập huấn hướng dẫn kỹ thuật; thực hiện các mô hình trình diễn làm điểm nhân rộng; hỗ trợ cho bà con nông dân về con giống, thức ăn, phân bón. Đặc biệt để kiểm soát quan trắc môi trường nước đầu nguồn vùng nuôi, phòng trừ dịch bệnh, ngành thú y thủy sản tỉnh đã chủ động đề xuất hỗ trợ chlorine xử lý nước trước khi thả nuôi, nâng cao ý thức "phòng bệnh hơn chữa bệnh" đối với người nuôi tôm.

Riêng vấn đề nghiên cứu lai tạo những loại giống lúa mới có khả năng chịu mặn cao để thích ứng với môi trường đất đai nhiễm phèn, nhiễm mặn cũng được tỉnh Kiên Giang chú trọng. Công tác nghiên cứu lai tạo, nhân giống lúa được thực hiện bởi Trung tâm giống nông lâm ngư nghiệp, Trung tâm Khuyến nông và 3 hệ thống mạng lưới cơ sở sản xuất giống tư nhân, HTX, THT với tổng diện tích khoảng 3.500 ha/vụ, khả năng cung ứng giống xác nhận cấp 1 với số lượng 15.000 tấn, chiếm 40% và giống xác nhận cấp 2 với số lượng 5.000 tấn chiếm 10% nhu cầu giống lúa toàn tỉnh. Ngoài nghiên cứu lai tạo, nhân giống lúa xác nhận, Trung tâm Giống nông lâm ngư nghiệp cũng tập trung nghiên cứu giống lúa có nhiều đặc tính tốt, phù hợp với mô hình tôm - lúa và giống lúa GKG1 đã được chọn tạo thành công đạt tiêu chuẩn QCVN 01-54:2011/BNNPTNT.

Gỡ “nút thắt”

Mặc dù luân canh tôm - lúa tại Kiên Giang nói riêng, khu vực ĐBSCL nói chung mang lại hiệu quả kinh tế cao song mô hình này còn tồn tại nhiều bất cập, điển hình như hệ thống thủy lợi phục vụ nuôi tôm vẫn chưa được quan tâm đầu tư đồng bộ. Có thể thấy hiện nay mô hình tôm - lúa tập trung chủ yếu vùng U Minh Thượng, đặc điểm của vùng này là bị chia cắt bởi sông Cái Lớn nên nước mặn thường xâm nhập sâu và khó đưa nước ngọt về vùng này. Quy hoạch thủy lợi được Bộ NN&PTNT quan tâm đầu tư trên quan điểm định hướng cơ bản ngọt hóa và kiểm soát xâm nhập mặn, cơ bản hệ thống thủy lợi đã hoàn chỉnh tại vùng Tứ giác Long Xuyên, Tây sông Hậu giúp bà con sản xuất lúa 3 vụ/năm. Riêng Vùng bán đảo Cà Mau, Bộ NN& PTNT đã đầu tư dự án hạ tầng thủy lợi được phân thành 2 ô thủy lợi tại huyện An Biên, An Minh nhưng đến nay hệ thống thủy lợi Chương trình ngọt hóa Vùng bán đảo Cà Mau và dự án 2 ô thủy lợi này vẫn chưa hoàn thiện. Đây chính là điểm bất cập lớn nhất để bố trí sản xuất nông nghiệp cho khu vực này.

Để tháo gỡ “nút thắt” này, trong thời gian tới tỉnh Kiên Giang sẽ đề xuất, kiến nghị Bộ NN&PTNT xem xét lại về tính phù hợp và tính hiệu quả của chủ trương ngọt hóa bán đảo Cà Mau. Thay vào đó là đầu tư hệ thống thủy lợi có khả năng điều tiết mặn - ngọt đảm bảo cách ly vùng chuyên lúa phía bắc QL80 và phía bắc vùng Tây sông Hậu; tạo ra vùng phát triển sản xuất nông nghiệp theo mô hình tôm - lúa được mở rộng (bao gồm các huyện vùng U Minh Thượng, các xã ven biển vùng Tứ giác Long Xuyên phía Nam QL 80, các xã ven vùng Tây sông Hậu ven sông Cái Lớn).

Ông Nguyễn Văn Tâm chia sẻ: “Quan điểm của tỉnh sẽ tập trung giải quyết vấn đề thủy lợi theo hướng hài hòa lợi ích, tránh xung đột trong sản xuất trồng lúa và phát triển nuôi tôm nước lợ. Quy hoạch thủy lợi đảm bảo nguồn nước ngọt phục vụ sản xuất nông nghiệp; đảm bảo nguồn cấp nước mặn cho nuôi trồng thủy sản; tiêu thoát nước cho vùng trũng, thoát nước cho vùng nuôi trồng thủy sản ven biển; đầu tư hệ thống đê bao, ô bao, trạm bơm điện phục vụ sản xuất nông nghiệp. Những quan điểm, định hướng này sẽ là nội dung của Dự án rà soát, điều chỉnh, bổ sung quy hoạch thủy lợi phục vụ sản xuất nông nghiệp tỉnh Kiên Giang đến năm 2020, định hướng đến năm 2030. Hàng năm tỉnh sẽ bố trí nguồn vốn cân đối từ ngân sách địa phương, vốn TW hỗ trợ có mục tiêu, đặc biệt nguồn vốn trái phiếu Chính phủ cho dự án đầu tư xây dựng hạ tầng thủy lợi phục vụ nuôi trồng thủy sản 2 ô thủy lợi huyện An Biên và An Minh”.

MINH KIỆT – NGUYỄN HÙNG