TPP và bài toán năng suất lao động

11:17:47 | 3/2/2016

Bất kỳ một hiệp định thương mại tự do nào cũng bao gồm rất nhiều thách thức mới bên cạnh những cơ hội phát triển đối với các quốc gia thành viên. Gia nhập Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), Việt Nam đối mặt với sức ép cạnh tranh rất lớn, để nâng cao năng lực cạnh tranh thì việc tăng năng suất lao động là bước đi tất yếu của doanh nghiệp. Xung quanh vấn đề này, phóng viên Tạp chí Vietnam Business Forum có cuộc trao đổi với ông Nguyễn Anh Tuấn – Viện trưởng Viện Năng suất chất lượng Việt Nam. Đỗ Ngọc thực hiện.

 Năng suất lao động Việt Nam đang ở mức thấp, các chuyên gia dự đoán khi Việt Nam gia nhập TPP, tỷ lệ người lao động mất việc có nguy cơ tăng cao? Theo ông dự đoán này liệu có cơ sở?

Khi TPP có hiệu lực, hàng hóa có xuất xứ Việt Nam đứng trước cơ hội tiếp cận các thị trường Mỹ, Nhật Bản, Canada... với thuế nhập khẩu bằng 0%. Kết hợp với các cam kết rõ ràng hơn về cải thiện môi trường đầu tư và bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, TPP sẽ góp phần thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, nhất là từ các tập đoàn lớn. Nếu biết tận dụng thời cơ này, Việt Nam sẽ hưởng lợi từ làn sóng đầu tư mới, tạo ra nhiều công ăn việc làm, hình thành năng lực sản xuất mới để tận dụng các cơ hội xuất khẩu và tham gia các chuỗi giá trị trong khu vực và toàn cầu.TPP cũng tạo cơ hội cho các doanh nghiệp đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá, mở rộng sản xuất, kinh doanh, tạo thêm nhiều công ăn việc làm cho người lao động, trong đó tập trung vào các ngành, lĩnh vực như: may mặc, giày da, thủy hải sản, lắp ráp thiết bị điện tử ...Trong xu thế hội nhập và chiều hướng phát triển hiện nay, khi gia nhập TPP, với tầm nhìn lâu dài và tổng thể, tiền lương và thu nhập của người lao động có xu hướng được cải thiện tốt hơn.


Tuy nhiên bên cạnh những tác động tích cực thì người lao động sẽ cạnh tranh với đội ngũ chất lượng cao từ các nước và phải rèn luyện nhiều kỹ năng để có thể làm việc được trong môi trường hội nhập rộng lớn. Hiệp định TPP kết thúc đàm phán sau hơn 5 năm và cộng đồng kinh tế chung ASEAN (AEC) chính thức được thành lập. Việt Nam không thiếu nhân tài và lao động Việt Nam hoàn toàn đủ khả năng vươn tầm quốc tế trong bối cảnh gia nhập TPP và cộng đồng kinh tế chung ASEAN. Điều lao động Việt Nam cần làm bây giờ là tự tin để học hỏi, phát huy những tiềm năng sẵn có trên nền tảng kiến thức cùng cơ hội mà cơ sở đào tạo, doanh nghiệp và xã hội đem lại.Trước đây chúng ta định vị nguồn nhân lực giá rẻ như một yếu tố cạnh tranh thì hiện nay điều này không còn phù hợp nữa. Khi định vị giá rẻ thì chúng ta sẽ bỏ qua yếu tố quan trọng là phát triển năng lực nội tại của chính người lao động. Nhưng hội nhập quốc tế đòi hỏi nhân lực phải có những năng lực đạt chuẩn như khả năng lãnh đạo, thích nghi môi trường, khả năng quản lý thay đổi, kỹ năng làm việc chuyên nghiệp, vốn ngoại ngữ... Bên cạnh đó, doanh nghiệp cần phải tạo ra một môi trường mà trong đó có sự gắn kết cao với nhân viên. Các doanh nghiệp trong nước cần có những thay đổi tích cực, nâng cao ứng dụng khoa học công nghệ tiên tiến vào sản xuất để thu hút lao động có tay nghề và phát triển. Điều này sẽ góp phần nâng cao chất lượng môi trường làm việc và giải quyết vấn đề việc làm. Bên cạnh đó, các công ty vào Việt Nam theo cơ hội này sẽ đem theo công nghệ tiên tiến, nền tảng kiến thức chuyên sâu và đội ngũ lao động có trình độ cao. Tôi đánh giá đây là cơ hội tốt để lao động trong nước cọ xát, học hỏi và phát triển.

 Năng suất lao động Việt Nam còn thấp phải chăng do vấn đề tiền lương, thưa ông?

Theo thống kê của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) thì năng suất lao động bình quân chung tại Việt Nam rất thấp nếu so với các nước trong khu vực, chỉ bằng 30% của Malaisia, 40% của Thái Lan. Thực tế ở ngành dệt may Việt Nam, năng suất lao động bình quân (tính trên giá gia công) tuy có cao hơn so với bình quân chung của cả nước nhưng cũng mới chỉ đạt 1,5 USD/giờ (bằng 50% năng suất bình quân ngành may Thái Lan và Indonesia). Người lao động làm ra 312 USD/ tháng, nếu trừ các chi phí trong sản xuất, quản lý, bảo hiểm xã hội, kinh phí công đoàn, phí lưu thông… thì chỉ còn khoảng 52% để trả lương cho họ, tương đương khoảng 3,4 triệu đồng/tháng. Cho đến nay năng suất lao động của Việt Nam có tăng nhưng chậm. Mức tăng chủ yếu do năng suất nội bộ ngành, chuyển dịch cơ cấu kinh tế tăng và nhờ các nguồn lực giá rẻ.

Theo cam kết khi vào TPP, là mức lương phải bảo đảm được nhu cầu sống tối thiểu của người lao động mà Việt Nam vẫn là một trong những nước có mức lương tối thiểu thấp. Khi tiền lương đáp ứng được nhu cầu sống tối thiểu của người lao động mới bàn đến năng suất lao động. Vì vậy theo tôi trước hết cần ưu tiên đầu tư đổi mới, phải quản trị doanh nghiệp sao cho chi phí quản lý thấp, tạo điều kiện cho người lao động được đào tạo tay nghề, có những động lực để được cống hiến, sáng tạo, dẫn đến tăng năng suất lao động cải thiện đời sống.

Để tăng năng suất lao động, Việt Nam cần có những giải pháp gì, thưa ông?

Năng suất lao động cao đồng nghĩa thu nhập của người lao động tăng. Tuy nhiên, theo kết quả khảo sát của ILO và ADB, trong những năm gần đây, tăng thu nhập ở Việt Nam chủ yếu do tăng lương tối thiểu. Với mức thu nhập trung bình đạt 3,8 triệu đồng/tháng (tương đương 181 USD), Việt Nam chỉ nhỉnh hơn đôi chút so với Lào (119 USD), Campuchia (121 USD) và Indonesia (174 USD); ngược lại thấp gần 2 lần so với Thái Lan (357 USD), hơn 3 lần so với Malaysia (609 USD) và gần 20 lần so với Singapore (3.547 USD). Để cải thiện năng suất lao động, bảo đảm các mục tiêu về tăng trưởng kinh tế, Việt Nam cần xây dựng khung chính sách nâng cao năng suất của ngành nông nghiệp, đồng thời đa dạng hóa các ngành công nghiệp; tái cơ cấu ngành nghề theo hướng chuyển dịch lao động từ nông nghiệp và các ngành dịch vụ cấp thấp sang các ngành chế tạo và các ngành dịch vụ cao hơn. Song song đó phải nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo; có chính sách về thị trường lao động nhằm cải thiện điều kiện làm việc và nâng cao năng suất, chất lượng việc làm để tăng thu nhập bền vững cho người lao động

Cùng với tiến trình hội nhập, việc tăng lương để đảm bảo đời sống của người dân là việc cần thiết, song tăng năng suất lao động là vấn đề cần có thời gian và phải tốn kém chi phí ban đầu cao hơn so với các phương án khác. Tuy vậy đây là một phương án đảm bảo tính bền vững bởi không thể dựa vào chi phí nhân công giá rẻ và nếu tăng lương theo chính sách trong khi không đầu tư cho tăng năng suất, chúng ta sẽ không thể nào cạnh tranh trong sân chơi toàn cầu được.