Việt Nam phải trở nên “đáng tin cậy” hơn trong mắt đối tác

15:14:20 | 27/4/2016

 “Làm thế nào để Việt Nam có thể trở thành Quốc gia đáng tin cậy” là câu hỏi quan trọng mà ông Atsusuke KAWADA - Trưởng đại diện JETRO tại Hà Nội đề cập tới trong một số diễn đàn gần đây. Môi trường kinh doanh chưa minh bạch, chất lượng sản phẩm thấp thậm chí “không an toàn”, các doanh nghiệp thiếu kinh nghiệm, thiếu “uy tín” là những rào cản khiến các nhà đầu tư nước ngoài e ngại khi đến Việt Nam.

Kết quả điều tra của Jetro đối với nhiều DN Nhật Bản khi hoạt động tại Việt Nam cho thấy có tới 77.9% doanh nghiệp chỉ trích rằng tỷ lệ tăng lương quá cao; 65.2% doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc mua nguyên liệu và linh phụ kiện tại chỗ và hơn một nửa số DN (55.8%) cho rằng các thủ tục hành chính, thuế quan tại Việt Nam quá  phức tạp. Nhiều doanh nghiệp của Nhật Bản đang phải chi trả các khoản lệ phí không chính thức, bất hợp lý khi kinh doanh tại Việt Nam.


Tạo dựng lại niềm tin

Ông Atsusuke KAWADA đưa ra lời khuyên, các DN khi khởi nghiệp tại Việt Nam thì hơn bất cứ điều gì, việc tạo nên được các sản phẩm của Việt Nam có tính cạnh tranh là điều rất quan trọng. Để làm được điều này, thì cần phải giảm chi phí sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm của các mặt hàng sản xuất, nâng cao năng suất của hoạt động sản xuất, đào tạo nguồn nhân lực tốt có thể đáp ứng các yêu cầu của hoạt động sản xuất. Tôi cho rằng sự hỗ trợ từ phía Chính phủ Việt Nam cho các hoạt động trên là rất cần thiết nhưng quan trọng hơn là sự nỗ lực từ chính các DN.

Trưởng đại diện JETRO tại Hà Nội cho biết: “Ngay cả người Việt Nam cũng không tin tưởng vào các mặt hàng và thực phẩm của Việt Nam nên có khuynh hướng dùng các mặt hàng ngoại được nhập khẩu chính hãng. Trước đây Nhật Bản cũng đã từng như vậy, cũng đã có thời kì mà người Nhật tỏ mối nghi ngờ cho chính sản phẩm của Nhật Bản như  liệu “có rẻ không?”  liệu “có chất lượng không”? Tuy nhiên do DN thường xuyên chuyên tâm vào việc nâng cao chất lượng sản phẩm nên tới nay thì các sản phẩm của Nhật Bản đã đạt được trình độ như bây giờ”.

Những giải pháp được ông Atsusuke chỉ ra đều rất thiết thực đối với các doanh nghiệp Việt Nam. Để giảm chi phí sản xuất, các DN Việt Nam nên áp dụng một cách linh hoạt các hiệp định thương mại tự do (FTA) đã có hiệu lực và hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP). Việc thu thập thông tin thị trường từ nơi xuất khẩu, khâu kiểm tra cũng như việc khai thác thị trường bán, thị trường xuất khẩu cũng rất quan trọng. Đại diện từ Jetro cho rằng thông qua việc tham dự các buổi giao lưu kết nối kinh doanh, hội đàm thương mại và tham dự vào các triển lãm Quốc tế được tổ chức tại Việt Nam thì DN sẽ có nhiều cơ hội để mở rộng việc xuất khẩu hàng hóa hơn. 

Hiện tại, Jetro đang vận hành chương trình kết nối kinh doanh  TTPP  (Trade Tie-up Promotion Program). Liên quan đến các giao dịch Quốc tế, các doanh nghiệp VN có thể thông qua các website mà Jetro xây dựng để giới thiệu về công ty mình và cũng có thể tìm kiếm thông tin của đối tác mà bạn muốn. Hiện nay, chương trình này có sự đăng ký của hơn 40,000 khách hàng từ 170 nước.

Đối với các vấn đề minh bạch thuế quan, ông Atsusuke KAWADA chỉ ra giải pháp: “Cần sử dụng HS code để không phát sinh sự giải thích khác biệt về hải quan, và sẽ không còn tồn tại những hành vi đề nghị trả các khoản lệ phí không chính thức, bất hợp lý nữa. Tôi hy vọng rằng phía Việt Nam sẽ chuyên tâm vào việc giải quyết các vấn đề trên”. 

Điểm sáng xuất khẩu nông sản

Trong năm 2015 xuất khẩu sang Nhật của Việt Nam giảm 3.9% (14,1 tỷ USD), nhập khẩu tăng 11.3% (14,4tỷ US$) so với năm trước. 5 năm kể từ năm 2010, thu chi thương mại đối Nhật của Việt Nam rơi vào trạng thái thâm hụt nhưng về cơ bản là cũng gần cân bằng. Lý do chính của việc xuất khẩu sang Nhật giảm được ông Atsusuke KAWADA chỉ ra là do lượng xuất khẩu dầu thô giảm 23.4% so với năm trước, và do giá dầu thô thấp nên số tiền thu nhập từ dầu thô cũng giảm 60.4% so với năm trước.

Các mặt hàng xuất khẩu sang Nhật chính là nghành dệt may (2,8tỷ USD), cáp kim loại là phụ kiện dùng cho ô tô cũng như máy móc vận tải và các linh phụ kiện kèm theo (1,9 tỷ USD, thủy sản (1 tỷ USD), giày da (6 trăm triệu USD). Ngược lại, những mặt hàng nhập khẩu từ Nhật Bản là máy móc khí cụ và các linh phụ kiện kèm theo là (4, 5 tỷ USD), mặt hàng điện tử, máy vi tính và linh phụ kiện kèm theo là (2, 3 tỷ USD), thép và vụn  thép là (1,8 tỷ USD), linh phụ kiện ô tô là (7 trăm triệu USD).

Nông sản là mặt hàng mà doanh nghiệp hai nước rất quan tâm. Ông Atsusuke KAWADA cho biết, tháng 9 năm ngoái cùng với chuyến thăm và làm việc tại Nhật Bản của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, hai bên đã thống nhất hủy bỏ lệnh cấm nhập khẩu bằng việc xuất khẩu xoài từ Việt Nam vào Nhật Bản và xuất khẩu táo từ Nhật Bản vào Việt Nam. Mục tiêu của chính phủ Nhật Bản là đến năm 2020 các mặt hàng là lương thực và các nông lâm sản có thể đạt được kim nghạch xuất khẩu là 1000 tỷ Yên và Jetro cũng đang nỗ lực trong việc giúp Chính phủ Nhật Bản hiện thực hóa mục tiêu này bằng các hoạt động như hỗ trợ hoạt động xuất khẩu lương thực và nông thủy sản của Nhật. Cụ thể là  Jetro đã hợp tác với siêu thị AEON Mall Long Biên mới khai trương cuối tháng 10 năm ngoái tổ chức hội thảo quảng bá táo của Nhật tại siêu thị này.

Theo Trưởng đại diện JETRO tại Hà Nội, việc hủy bỏ lệnh cấm nhập khẩu đối với xoài từ Việt Nam là cơ hội rất lớn cho việc xúc tiến xuất khẩu xoài Việt Nam sang Nhật Bản. “Phía Việt Nam, theo tôi biết thì ngoài việc xuất khẩu xoài cũng đang có phương châm xúc tiến việc xuất khẩu thêm các hoa quả khác như thanh Long, vải thiều sang Nhật Bản nữa. Jetro cũng sẽ hỗ trợ việc Cục Xúc tiến Thương mại dự định tổ chức Vietnam Foodexpo tại thành phố Hồ Chí Minh vào tháng 11 năm nay. Từ trong thâm tâm tôi cũng kỳ vọng vào việc mở rộng và đẩy mạnh thương mại mặt hàng nông sản giữa hai nước Nhật Việt”.

Hương Ly