Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam 10 tháng đầu năm 2016 đạt kết quả chưa cao như kỳ vọng, xuất khẩu tăng 6,7% thấp hơn cùng kỳ 2,9 điểm phần trăm, bằng 72% kế hoạch năm.
Theo Tổng cục Hải quan, trong 10 tháng đầu năm 2016, tổng trị giá xuất nhập khẩu dự kiến đạt 284,64 tỷ USD, tăng 4,6% so với cùng kỳ năm 2015; trong đó tổng trị giá xuất khẩu ước đạt 144,08 tỷ USD, tăng 7,2% và tổng trị giá nhập khẩu ước đạt 140,56 tỷ USD, tăng 2,1%. Như vậy, trong 10 tháng đầu năm 2016, thương mại hàng hóa của Việt Nam dự kiến xuất siêu gần 3,52 tỷ USD.
Tính riêng trong tháng 10 năm 2016, tổng trị giá xuất nhập khẩu (XNK) ước đạt 31,2 tỷ USD, tăng 4,1% so với tháng trước; trong đó, tổng trị giá XK ước đạt 15,5 tỷ USD, tăng 0,5% và tổng trị giá NK ước đạt 15,7 tỷ USD, tăng 7,9%.
Với kết quả ước tính trên thì trong 10 tháng/2016, tổng trị giá XNK dự kiến đạt 284,64 tỷ USD, tăng 4,6% so với cùng kỳ năm 2015; trong đó tổng trị giá XK ước đạt 144,08 tỷ USD, tăng 7,2% và tổng trị giá NK ước đạt 140,56 tỷ USD, tăng 2,1%.
Trong 10 tháng đầu năm 2016, các mặt hàng XK chủ yếu là: Điện thoại các loại và linh kiện, hàng dệt may, máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện, máy móc thiết bị, dụng cụ, phụ tùng, hàng giày dép, hàng thủy sản...
Xuất khẩu 10 thángđầu năm có những điểm tích cực như xuất khẩu nhóm hàng nông sản, thủy sản tăng trưởng cao với mức tăng 7,4% (cùng kỳ năm ngoái giảm hơn 10%) và xuất khẩu của khu vực doanh nghiệp trong nước tăng trưởng dương, đạt mức tăng 5% (cùng kỳ năm ngoái giảm 2,7%).
Các mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu tăng cao (trên15%) so với cùng kỳ năm 2015 là rau quả, cà phê, hạt tiêu, hạt điều. Tuy nhiên, mặt hàng gạo và sắn xuất khẩu giảm khá sâu so với cùng kỳ do lượng xuất khẩu giảm.
Giá xuất khẩu bình quân của nhiều nhóm hàng nông sản (trừ gạo và điều) tiếp tục giảm so với cùng kỳ đã khiến kim ngạch xuất khẩu của nhóm giảm 585 triệu USD, trong đó giá xuất khẩu sắn giảm 15,1%, giá cà phê giảm 12%, giá cao su giảm 11,9%, hạt tiêu giảm 13,9%, giá chè giảm 5,8%.
Nhóm công nghiệp chế biến là nhóm hàng chủ đạo, chiếm hơn 80% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước, nhóm hàng này luôn duy trì được mức tăng trưởng tương đối đều, bình quân 8,5% cho từng quý. Tuy nhiên do một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực của nhóm như dệt may, da giày, điện thoại và linh kiện, linh kiện điện tử... có tốc độ tăng thấp hơn so với cùng kỳ đã khiến cho kim ngạch xuất khẩu của nhóm giảm mạnh. Chưa kể đến một số nhóm hàng như: hóa chất, phân bón, sản phẩm chất dẻo, clanhke và xi măng xuất khẩu giảm cả về lượng và giá do nhu cầu nhập khẩu của các nước trên thế giới giảm và cạnh tranh gay gắt với các sản phẩm cùng loại Trung Quốc đã khiến KNXK của nhóm giảm sâu.
Nhập khẩu hàng hóa đảm bảo cho nhu cầu tiêu dùng trong nước và sản xuất hàng xuất khẩu. Nhập khẩu giảm chủ yếu là do giá dầu thô giảm dẫn đến giá nhập khẩu của nhiều nguyên liệu đầu vào như xăng dầu, phân bón, sắt thép, chất dẻo nguyên liệu… giảm. Nhập khẩu hàng hóa xu hướng tăng dần trong các tháng cuối năm, nhập khẩu của khối doanh nghiệp trong nước tăng cao hơn khối các doanh nghiệp có vốn nước ngoài là dấu hiệu khả quan cho thấy sự hồi phục của doanh nghiệp trong nước.
Nguyên nhân chủ yếu là do nhu cầu nhập khẩu trên thế giới vẫn ở mức thấp, xu hướng bảo hộ gia tăng ở các nước nhập khẩu và sự sụt giảm giá xuất khẩu hàng hóa trên thị trường thế giới. Các yếu tố này đã kìm hãm sự tăng trưởng xuất khẩu, nhập khẩu của các nước nói chung, trong đó có Việt Nam. Trong bối cảnh chung như vậy, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vẫn tăng trưởng 6,7% là khá tích cực nếu so sánh với các nước trong khu vực đều có xuất khẩu, nhập khẩu tăng trưởng âm hoặc chỉ đạt mức tương đương năm trước.
10 tháng đầu năm 2016, lượng xuất khẩu nhóm hàng nông sản có mức tăng khá so với cùng kỳ (xấp xỉ 1 tỷ USD), tuy nhiên, lại không được lợi về giá, do vậy, dưới tác động của giá và lượng, nhóm hàng này đóng góp vào tăng 424 triệu USD kim ngạch xuất khẩu so với cùng kỳ.
Đối với nhóm hàng nhiên liệu và khoáng sản, do nhu cầu tiêu dùng nhiên liệu và giá thế giới biến động giảm, nên kim ngạch xuất khẩu của nhóm giảm tương đối sâu so với cùng kỳ, giá giảm khiến kim ngạch xuất khẩu của nhóm giảm hơn 1 tỷ USD, lượng giảm khiến kim ngạch xuất khẩu giảm hơn 360 triệu USD. Cộng cả giảm giá và lượng giảm gần 1,4 tỷ USD.
Hoa Kỳ tiếp tục là thị trường xuất khẩu lớn nhất và vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng cao. Tốc độ tăng KNXK 10 thángđầu năm vào thị trường này đạt 14,5%, chiếm tỷ trọng 22% tổng KNXK cả nước (cùng kỳ năm trước chiếm 20,2%); Tiếp đến là thị trường EU tăng 9,5% và chiếm tỷ trọng 19% tổng KNXK; Thị trường Trung Quốc tăng 19,1%, chiếm tỷ trọng 12%. Điều này cho thấy nỗ lực trong các biện pháp giữ vững trọng tâm khai thác các thị trường xuất khẩu chủ lực của Việt Nam đang tiếp tục phát huy hiệu quả tốt. Tuy nhiên, một số thị trường xuất khẩu trong khu vực giảm như ASEAN giảm 9,1%, Hồng Công giảm 11,2%. Hương Ly