Sự hình thành và phát triển các KCN là một bước đi sáng tạo mang tính đột phá tạo sức hút lớn trong bức tranh kinh tế của Vĩnh Phúc những năm qua. Trong thành quả kinh tế chung của toàn tỉnh thì công nghiệp tập trung luôn giữ vai trò chủ đạo, tiên phong. Những nỗ lực phấn đấu của BQL các KCN góp phần quan trọng đưa các KCN trở thành động lực chủ yếu thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tiến bộ; tăng trưởng kinh tế nhanh, liên tục và trở thành nhân tố quyết định quá trình CNH, HĐH tỉnh Vĩnh Phúc.
Sau 20 năm tái lập, Vĩnh Phúc đã tranh thủ cơ hội, vừa quy hoạch, khai thác các điều kiện hạ tầng sẵn có, vừa thu hút đầu tư, từng bước đầu tư phát triển hạ tầng mới. Dưới sự lãnh đạo và chỉ đạo trực tiếp của Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh, Ban Quản lý các khu công nghiệp đã phối hợp với các ngành chức năng của tỉnh triển khai tốt công tác quy hoạch, kêu gọi các doanh nghiệp vào đầu tư hạ tầng kỹ thuật, phát triển các KCN. Từ 01 KCN được Chính phủ cho phép thành lập năm 1998 là KCN Kim Hoa với diện tích giai đoạn 1 là 50 ha, đến nay trên địa bàn tỉnh có 19 KCN với quy mô 5.540 ha, được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt danh mục phát triển đến năm 2020.
Hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật trong và ngoài KCN được quan tâm đầu tư và ngày càng hoàn thiện, hiện đã có 11 KCN được thành lập với tổng diện tích quy hoạch 2.347,9 ha. Tỷ lệ lấp đầy diện tích đất công nghiệp đã có hạ tầng đạt 70 %, trong đó phải kể đến các KCN có tỷ lệ lấp đầy cao như Khai Quang (đạt 91%), Bình Xuyên (đạt 59%); Bình Xuyên II (đạt 79%), Kim Hoa (đạt 100%),…
Với quan điểm công tác quy hoạch phải đi trước một bước, quy hoạch phải mang tính tổng thể, đồng bộ, gắn phát triển công nghiệp với phát triển đô thị và dịch vụ, bảo đảm sự đồng bộ về hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội; khai thác phát triển KCN ở các vùng đồi, vùng đất bạc màu, hạn chế tối đa khai thác quỹ đất trồng lúa cho phát triển công nghiệp, bảo đảm cho sự phát triển bền vững. 20 năm qua, các KCN được xây dựng trên địa bàn đã tạo ra quỹ đất có hạ tầng tương đối đồng bộ, đáp ứng các yêu cầu cơ bản phục vụ nhu cầu thu hút đầu tư, một số KCN đã chủ động được quỹ đất sạch với mức giá cho thuê hạ tầng KCN hợp lý, tạo được lợi thế cạnh tranh với các KCN ở các tỉnh thành lân cận, thu hút được sự quan tâm của các nhà đầu tư nước ngoài.
Cùng với các cấp, các ngành, công tác Cải cách thủ tục hành chính được tập thể cán bộ công chức của Ban quán triệt và tích cực triển khai, nhất là trong lĩnh vực đầu tư, thực hiện theo mô hình “một cửa”, “một cửa liên thông”, phối hợp tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong đăng ký kinh doanh, nộp thuế, tạo môi trường thuận lợi, sân chơi bình đẳng cho các doanh nghiệp, từng bước tạo được niềm tin cho các nhà đầu tư, trở thành địa chỉ đầu tư hấp dẫn, tin cậy, góp phần nâng cao chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) nhiều năm trong Top 10 của cả nước, dẫn đến dòng vốn đầu tư vào tỉnh tăng nhanh cả về số lượng và quy mô dự án. Từ khi Vĩnh Phúc hình thành KCN đầu tiên đến nay, các KCN đã thu hút được 200 dự án, với 41 dự án DDI, tổng vốn đầu tư đăng ký đạt 14.559,98 tỷ đồng và 159 dự án FDI vốn đăng ký 2,5 tỷ USD.
Thu hút đầu tư vào các KCN trên địa bàn tỉnh đã dần hình thành các trung tâm công nghiệp theo vùng, đã có 13 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư vào tỉnh như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan với một số Tập đoàn lớn vào đầu tư, như Sumitomo, Honda, Piaggio, Foxconn, Patron v.v..; hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp đã tập trung vào các nhóm ngành công nghiệp mũi nhọn, tạo ra các sản phẩm có tính cạnh tranh và đem lại giá trị gia tăng cao: ngành công nghiệp sản xuất, lắp ráp ô tô, xe máy; ngành CN điện tử và ngành công nghiệp hỗ trợ cho sản xuất ô tô, xe máy, linh kiện điện tử,...
Các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh có hiệu quả đã tăng vốn đầu tư, mở rộng sản xuất, tạo thêm việc làm mới cho hàng vạn lao động, nâng cao thu nhập cho người lao động, thúc đẩy sự gia tăng của các hoạt động dịch vụ (dịch vụ cho thuê nhà, dịch vụ thương mại, tài chính, tiền tệ…), góp phần chuyển dịch cơ cấu lao động và cơ cấu kinh tế tỉnh theo hướng tích cực, đưa Vĩnh Phúc từ một tỉnh thuần nông trở thành một trong những tỉnh có tốc độ tăng giá trị sản xuất công nghiệp (GTSXCN) nhanh của cả nước. Hàng năm, đóng góp của các doanh nghiệp KCN chiếm khoảng 60% GTSXCN toàn tỉnh, kim ngạch xuất khẩu chiếm 60-65% giá trị xuất khẩu toàn tỉnh, nộp ngân sách chiếm 30-35% tổng thu ngân sách toàn tỉnh; đến nay các doanh nghiệp đã tạo việc làm cho trên 59.000 lao động. Trong đó có đóng góp đáng kể của các doanh nghiệp tiêu biểu như Honda, Piaggio, VPIC1, Patron Vina…
Những kết quả đó đã góp phần vào việc đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế của tỉnh, thúc đẩy sự phát triển toàn diện về kinh tế - văn hóa – xã hội – an ninh quốc phòng, tạo được diện mạo mới cho tỉnh Vĩnh Phúc.
Đồng thời với công tác thu hút đầu tư, quy hoạch phát triển KCN, công tác quản lý các dự án sau cấp chứng nhận đầu tư được Ban Quản lý các khu công nghiệp xác định là một nhiệm vụ quan trọng. Ban luôn quan tâm và kịp thời giải quyết các khó khăn, vướng mắc về thủ tục đầu tư, tạo điều kiện tốt nhất để các doanh nghiệp triển khai dự án; thường xuyên theo dõi, kiểm tra, đôn đốc thực hiện tiến độ đầu tư của các dự án, phối hợp với các ngành các cấp tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp trong quá trình triển khai thực hiện dự án. Nhờ vậy, các dự án sau khi được cấp phép đầu tư, đã nhanh chóng triển khai xây dựng, đi vào hoạt động sản xuất đúng tiến độ, số dự án đầu tư đi vào hoạt động chiếm tỷ lệ cao, trong các KCN đã có 164 dự án đang hoạt động sản xuất kinh doanh, chiếm 83,2% tổng số dự án đầu tư, còn lại 33 dự án mới cấp, đang bồi thường, GPMB, triển khai xây dựng và đang tiến hành lắp đặt máy móc thiết bị nhà xưởng. Vốn giải ngân của các dự án hàng năm tăng mạnh, đến nay, tỷ lệ vốn thực hiện của các dự án FDI đạt 55%, của các dự án DDI đạt 39% tổng vốn đăng ký.
Công tác hậu kiểm, quản lý, giám sát hoạt động của các dự án được Ban quan tâm thực hiện thường xuyên. Hàng năm, Ban đều phối hợp với các ngành, các huyện thị trong tỉnh tiến hành kiểm tra việc chấp hành pháp luật về đầu tư, lao động, quy hoạch, xây dựng, bảo vệ môi trường, Phòng cháy chữa cháy, an toàn vệ sinh thực phẩm, an toàn lao động trong các KCN, kịp thời phát hiện những sai sót của doanh nghiệp, hướng dẫn, nhắc nhở doanh nghiệp nghiêm túc thực hiện đúng các quy định của Nhà nước. Chủ động kết nối doanh nghiệp với các địa phương, huyện, thị của tỉnh để hỗ trợ doanh nghiệp trong công tác tuyển dụng lao động; tham gia giải quyết tranh chấp lao động, các vụ đình công lãn công trong các KCN; phối hợp giải quyết những vấn đề về an ninh, trật tự an toàn xã hội trong các KCN và các doanh nghiệp.
Trong giai đoạn 2010-2016, mặc dù tình hình kinh tế thế giới và trong nước vẫn diễn biến phức tạp và còn nhiều khó khăn, song hoạt động thu hút đầu tư tại các khu công nghiệp (KCN) được Ban Quản lý (BQL) các KCN Vĩnh Phúc tổ chức thực hiện đạt được nhiều kết quả đáng kể. Trong giai đoạn này, các khu công nghiệp của tỉnh Hòa Bình đã thu hút được 43 dự án, trong đó có 15 dự án đầu tư nước ngoài với tổng vốn đăng ký 353,64 triệu USD, và 28 dự án trong nước với vốn đăng ký 5221,75 tỷ đồng. Tính đến thời điểm tháng 10/2016, trong các khu công nghiệp của tỉnh Hòa Bình đã có 61 dự án đầu tư , trong đó có 43 dự án đầu tư trong nước với tổng vốn đăng ký 7.994,8 tỷ đồng và 18 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài với tổng vốn đăng ký 398, 29 triệu USD.
Trong những năm qua, các doanh nghiệp FDI trong các KCN có những đóng góp quan trọng cho sự tăng trưởng kinh tế - xã hội của địa phương, tạo nhiều việc làm cho người lao động, nâng cao năng lực sản xuất công nghiệp, góp phần chuyển dịch cơ cấu lao động và là nhân tố quan trọng góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ của tỉnh.
Chia sẻ về định hướng thu hút các doanh nghiệp chất lượng hơn vào các KCN thời gian tới, ông Khổng Thành Công – Phó trưởng ban phụ trách Ban quản lý các KCN tỉnh Vĩnh Phúc chia sẽ: “ Trong thời gian tới, Vĩnh Phúc sẽ tập trung vào các nhóm vấn đề chính sau đây: Nâng cao hiệu quả công tác xúc tiến đầu tư trực tiếp vào các KCN, đặc biệt là XTĐT tại chỗ, thông qua các hình thức hỗ trợ, giải quyết khó khăn, vướng mắc, thúc đẩy triển khai dự án.
Tăng cường phối hợp với các ngành trong việc tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho doanh nghiệp, thực hiện nhất quán các hỗ trợ đối với nhà đầu tư, các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế được bình đẳng, tiếp cận các nguồn lực để phát triển.
Duy trì đối thoại, thường xuyên hỗ trợ các doanh nghiệp giải quyết các vụ việc, vướng mắc phát sinh trong quan hệ với các cơ quan, hành chính, tư pháp của địa phương và trung ương theo quy định của pháp luật, trong đó tập trung tháo gỡ khó khăn cho nhà đầu tư đối với các vấn đề chưa thống nhất trong hệ thống pháp luật về đầu tư và luật chuyên ngành.
Coi trọng chất lượng, hiệu quả và các chỉ tiêu tổng hợp (nộp ngân sách, giá trị gia tăng, giá trị sản xuất, lao động) của các dự án mới thu hút đầu tư.
Cải cách hành chính trong lĩnh vực đầu tư :
Công khai, minh bạch, các TTHC liên quan đến đầu tư. Thực hiện giảm 40-50% thời gian giải quyết TTHC theo quy định của Chính phủ đối với các TTHC liên quan đến đầu tư, trừ các TTHC có quy định thời gian giải quyết từ 03 ngày trở xuống. Áp dụng rộng rãi, có hiệu quả công nghệ thông tin trong việc giải quyết các TTHC cho tổ chức và công dân.
Phát triển các KCN: Chủ động tạo quỹ đất sạch cho thu hút đầu tư, phát triển công nghiệp; nâng cao chất lượng đầu tư xây dựng, thúc đẩy việc hoàn thiện đồng bộ hạ tầng kỹ thuật trong và ngoài hàng rào KCN với các tiện nghi, tiện ích công cộng phục vụ cho KCN, xây dựng đời sống văn hoá cho người lao động tại các KCN.
Thu hút đầu tư theo quy hoạch, gắn với phát triển bền vững, tập trung thu hút đầu tư vào các KCN đã hoạt động và các KCN mới như: Bá Thiện, Bá Thiện II, Bình Xuyên II, đặc biệt là phối hợp tốt với các ngành để đẩy nhanh tiến độ bồi thường, GPMB, giải quyết các điều kiện về hạ tầng để sớm triển khai Thăng Long – Vĩnh Phúc.
Phát triển nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu doanh nghiệp: Triển khai thực hiện các giải pháp về trợ doanh nghiệp đào tạo và thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao theo Nghị quyết HĐND tỉnh tại kỳ họp thứ IV;Có các biện pháp hiệu quả trong việc hỗ trợ các doanh nghiệp tuyển dụng lao động.
Thu hút đầu tư gắn với bảo vệ môi trường bền vững: Tăng cường kiểm soát vấn đề môi trường khi thẩm định dự án và khi dự án đi vào hoạt động, “không hy sinh môi trường để đổi lấy tăng trưởng”. Hạn chế tối đa việc cấp phép cho những lĩnh vực có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường cao như: giấy, dệt nhuộm, thép…, những dự án không phù hợp với quy hoạch, gây ảnh hưởng đến định hướng phát triển bền vững của tỉnh.