Bình Dương chính thức được tái lập từ tỉnh Sông Bé vào ngày 01/01/1997, vốn là một tỉnh thuần nông. Trên cơ sở kế thừa những thành tựu đạt được của tỉnh Sông Bé, Bình Dương đã tận dụng tốt lợi thế và xác định đúng hướng phát triển, sau một thời gian ngắn, đã chuyển mình trở thành một trong những tỉnh có nền sản xuất công nghiệp phát triển hàng đầu trong cả nước. Kết cấu hạ tầng được đầu tư đáng kể, lĩnh vực văn hoá - xã hội có nhiều tiến bộ, đời sống nhân dân được nâng cao. Tiềm lực và khả năng cạnh tranh thương hiệu của tỉnh được cải thiện rõ rệt, Bình Dương đang thuộc nhóm tỉnh dẫn đầu thành công trong sự nghiệp đổi mới, một số thành tựu nổi bật cụ thể như sau:
1. Lĩnh vực kinh tế
Trong những năm qua, kinh tế của tỉnh luôn giữ mức tăng trưởng khá, bình quân giai đoạn 1997-2015 đạt 14,1%, (giai đoạn 2010-2015 bình quân tăng 13%). Tổng sản phẩm trong tỉnh đến năm 2015 đạt 36.000 tỷ đồng, tăng gần 12,4 lần so với năm 1997 (2.884 tỷ đồng). Thu nhập bình quân đầu người đạt 73,1 triệu đồng, cao hơn so với mức chung của cả nước và tăng hơn 12,6 lần so với năm 1997 (5,8 triệu đồng/người). Cơ cấu kinh tế chuyển dịch tương ứng từ năm 1997 đến 2015 theo hướng: công nghiệp từ 50,4% tăng lên 60%; dịch vụ từ 26,8% tăng lên 37,3%; nông nghiệp từ 22,8% giảm xuống còn 2,7%.
- Về phát triển công nghiệp:
Công nghiệp là ngành chủ lực, đóng góp lớn vào thu ngân sách hàng năm, tốc độ tăng trưởng cao, ổn định, đúng định hướng, từng bước phát triển theo chiều sâu, tạo động lực cho phát triển đô thị, dịch vụ, thương mại trên địa bàn. Giá trị sản xuất công nghiệp của tỉnh giai đoạn 1997-2015 tăng bình quân 26%/năm (trong đó, khu vực kinh tế trong nước chiếm 31%, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài chiếm 69%), đến năm 2015 đạt 217.211,6 tỷ đồng, chiếm 20% của Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam và 12% cả nước.
Năm 1997, Bình Dương chỉ có 6 khu công nghiệp (KCN) tập trung nằm hầu hết ở phía Nam của tỉnh với diện tích 800 ha thì đến nay, toàn tỉnh đã có 28 KCN và 8 cụm công nghiệp tập trung với tổng diện tích hơn 10.000 ha được phân bố ở hầu khắp các huyện, thị, thành phố với tỷ lệ lấp kín bình quân đạt gần 65%. Ngoài ra, tỉnh đã hình thành 01 khu liên hợp công nghiệp - dịch vụ - đô thị với diện tích 4.196 ha; trong đó đã quy hoạch và xây dựng khu đô thị mới với diện tích 1.000 ha, đây sẽ là khu đô thị văn minh, hiện đại là nền tảng để Bình Dương phấn đấu trở thành thành phố trực thuộc trung ương.
- Phát triển thương mại, dịch vụ:
ngành dịch vụ có sự chuyển dịch tích cực và chiếm tỷ trọng 37,3% trong GRDP toàn tỉnh. Giai đoạn 1997 – 2015, giá trị dịch vụ tăng bình quân 20,9%/năm. Kim ngạch xuất khẩu hàng năm tăng 25,8%, đến năm 2015 đạt 20,976 tỷ đô la Mỹ, chiếm tỷ trọng 6,4% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước, các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu là đồ điện tử, gỗ, dệt may, da giày... Những năm qua, tỉnh đã dùng ngân sách hỗ trợ cho các doanh nghiệp đẩy mạnh hoạt động tiếp thị, mời gọi đầu tư, xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường xuất khẩu; đến nay đã có khoảng 230 quốc gia và vùng lãnh thổ trở thành thị trường xuất khẩu của tỉnh.
2. Thu ngân sách liên tục tăng
Thu ngân sách của tỉnh năm sau luôn cao hơn năm trước, giai đoạn 1997 – 2015 tăng 25%, trong đó thu nội địa và thu xuất nhập khẩu liên tục tăng so với dự toán Trung ương giao. Bình Dương là một trong những địa phương có tỷ lệ điều tiết về ngân sách Trung ương cao nhất (đến nay là 60%). Riêng năm 2015, thu mới ngân sách đạt 36.000 tỷ đồng. Đặc biệt, trong 20 năm xây dựng và phát triển, tỉnh Bình Dương là địa phương duy nhất của cả nước không sử dụng nguồn vốn trái phiếu Chính phủ để đầu tư phát triển. Thay vào đó, tỉnh ưu tiên sử dụng nguồn vốn từ việc xã hội hóa đầu tư, nhất là đầu tư cơ sở hạ tầng là hướng đi chủ yếu nhằm huy động nhiều nguồn lực từ xã hội cùng với chính quyền để thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
3. Huy động vốn đầu tư phát triển toàn xã hội đạt kết quả tốt
Tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội trên địa bàn giai đoạn 1997 – 2015 tăng bình quân 19,4%/năm. Đến năm 2015, tổng vốn đầu tư phát triển trên địa bàn tỉnh là 70.114 tỷ đồng, tăng 23 lần so với năm 1997 (3.048,9 tỷ đồng). Tốc độ tăng bình quân hàng năm khoảng 19,8%/năm, chỉ tính riêng giai đoạn 2010-2015 tổng vốn đầu tư toàn xã hội đạt 263.000 tỷ đồng, tăng bình quân 20%, trong đó vốn ngân sách nhà nước chiếm 8,6%, vốn đầu tư nước ngoài chiếm 43,1%.
Để phát triển kinh tế bền vững và đầu tư xây dựng đúng theo định hướng, trong 20 năm qua tỉnh đã chú trọng công tác quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội, quy hoạch chung phát triển đô thị. Trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với đô thị hoá, đến nay tỉnh đang triển khai 132 dự án có quy mô từ 5 ha trở lên, đã có 50 dự án thi công xây dựng cơ bản hoàn thành hạ tầng kỹ thuật góp phần tăng quỹ nhà ở, trong đó có một số dự án khu đô thị cao cấp hiện đại đang được triển khai xây dựng.
Tỉnh đã đầu tư đồng bộ kết cấu hạ tầng kết nối vùng phát triển công nghiệp và đô thị, các trục đường giao thông hướng ngoại kết nối vùng đã được tỉnh chủ động đầu tư theo quy hoạch, hoàn thành đưa vào sử dụng một số công trình lớn như: Quốc lộ 13, đường Mỹ Phước - Tân Vạn, cầu Phú Long, Thủ Biên, Bạch Đằng… đáp ứng nhu cầu vận tải trong tỉnh và các tỉnh lân cận, kết nối hệ thống sân bay, cảng biển trong vùng; tiếp tục xây dựng phương án đầu tư Quốc lộ 13 trên cao, tuyến Metro Thành phố mới Bình Dương - Suối Tiên (kết nối với tuyến Metro số 1 – Thành phố Hồ Chí Minh).
4. Công tác giáo dục và đào tạo
Tỷ lệ huy động trẻ 5 tuổi vào mẫu giáo, 6 tuổi vào lớp 1 đạt 100% hàng năm. Tỷ lệ giáo viên đạt chuẩn chiếm 98,6%, trong đó có 63,8% đạt trên chuẩn. Tiếp tục duy trì phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi, phổ cập trung học cơ sở và được công nhận đạt chuẩn phổ cập giáo dục bậc mầm non trẻ 5 tuổi. Toàn tỉnh hiện có 8 trường đại học, 6 trường cao đẳng, 17 trường trung cấp, 46 cơ sở đào tạo nghề, 50 trung tâm ngoại ngữ, tin học. Công tác xã hội hóa giáo dục được đẩy mạnh góp phần nâng cao chất lượng ở các bậc học.
5. Các lĩnh vực chăm sóc sức khoẻ nhân dân, đảm bảo an sinh xã hội
Toàn tỉnh có 7 bệnh viện tuyến tỉnh, 9 trung tâm y tế tuyến huyện, 17 phòng khám đa khoa khu vực, 26 cơ sở sản xuất thuốc theo tiêu chuẩn do Bộ Y tế quy định và hơn 2.000 cơ sở hành nghề y dược khác. Số bác sĩ/vạn dân là 6,8, bình quân giường bệnh bình quân/vạn dân đạt 27, gấp 1,9 lần so với 1997 (14 giường). Hiện nay, 100% trạm y tế xã có bác sĩ và 100% khu, ấp có nhân viên y tế hoạt động thường xuyên. Các chương trình bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp đã cơ bản bảo đảm an sinh xã hội. Bình Dương là tỉnh đầu tiên trong khu vực miền Đông Nam bộ không còn hộ nghèo theo chuẩn quốc gia và đang áp dụng chuẩn của tỉnh, tỷ lệ này cao từ 2,2 đến 2,5 lần so với tiêu chuẩn quốc gia. Với tiêu chí trên, toàn tỉnh hiện có 1.833 hộ nghèo, chiếm tỷ lệ 0,64% và 4.027 hộ cận nghèo, tỷ lệ 1,40%. Hàng năm có từ 40.000 đến 45.000 lao động được giải quyết việc làm mới, tỷ lệ qua lao động qua đào tạo đạt 72%, trong đó đào tạo nghề đạt 44%.
6. Công tác cải cách hành chính đạt được thành tựu quan trọng
Thực hiện hiệu quả chương trình tổng thể cải cách hành chính Nhà nước của Chính phủ giai đoạn 2010 – 2020, tỉnh Bình Dương đã tập trung chỉ đạo, xây dựng hướng đến nền hành chính hiện đại, minh bạch và hiệu quả. Việc đưa vào vận hành Trung tâm hành chính tỉnh với mô hình một cửa, một cửa liên thông tập trung hiện đại đã tạo điều kiện thuận lợi trong việc giải quyết thủ tục hành chính, đảm bảo tính minh bạch và khả năng tiếp cận thông tin của người dân, doanh nghiệp, tạo ra một môi trường bình đẳng, thuận lợi và an toàn cho các nhà đầu tư. Nhiều năm liền, Bình Dương là một trong những tỉnh thuộc nhóm đứng đầu về chỉ số cải cách hành chính (PAR Index), Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI), Chỉ số hội nhập kinh tế quốc tế (PEII), Chỉ số hiệu quả quản trị hành chính công cấp tỉnh (PAPI).
7. Quốc phòng, an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội được đảm bảo
Nhiệm vụ quân sự địa phương được triển khai toàn diện, sâu rộng và đạt hiệu quả thiết thực. Các cấp ủy Đảng, chính quyền và cơ quan quân sự luôn xác định nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc là nhiệm vụ trọng yếu thường xuyên nên đã thực hiện tốt công tác bồi dưỡng, phổ biến, tuyên truyền về quốc phòng an ninh cho cán bộ, Đảng viên và nhân dân, qua đó nâng cao ý thức cảnh giác với âm mưu, thủ đoạn diễn biến hòa bình, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch. Các phương án phòng thủ sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc được xây dựng từ tỉnh đến cơ sở và tổ chức diễn tập ở các cấp theo đúng kế hoạch, đạt yêu cầu. Chất lượng chính trị, học vấn, chuyên môn kỹ thuật của thanh niên nhập ngũ ngày càng được nâng cao.
8. Công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị
Công tác xây dựng tổ chức cơ sở Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, Đảng viên được tỉnh quan tâm xuyên suốt. Trong năm 2015, tổ chức cơ sở Đảng đạt trong sạch vững mạnh là 83,7% (trong đó 17,9% đạt vững mạnh tiêu biểu).
Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể đã thực hiện tốt vai trò trung tâm tập hợp và đoàn kết quần chúng thông qua các chương trình, kế hoạch, thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của Trung ương và chương trình hành động của Tỉnh ủy. Hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể tiếp tục được đổi mới, quan tâm chăm lo quyền lợi chính đáng của đoàn viên, hội viên và các tầng lớp nhân dân.
(Trích báo cáo thành tích tỉnh Bình Dương 20 năm tái lập (1/1/1997-1/1/2017) *Tiêu đề do Tạp chí đặt