Triển khai Nghị quyết 35 NQ/CP: Chuyển biến tích cực nhưng vẫn còn nhiều hạn chế

15:39:43 | 17/5/2017

Sau gần 1 năm thực triển khai Nghị quyết 35 NQ/CP, VCCI đã tiến hành cuộc khảo sát thu thập ý kiến của doanh nghiệp về việc thực hiện Nghị quyết của các Bộ ngành, địa phương và doanh nghiệp. Khảo sát đã nhận được sự tham gia của 1087 doanh nghiệp và hiệp hội doanh nghiệp trên toàn quốc (32 hiệp hội và 1055 doanh nghiệp. Trong tổng số 1055 doanh nghiệp tham gia khảo sát, có 794 doanh nghiệp trả lời trong thời điểm từ 11-12/2016 và 261 doanh nghiệp trả lời trong thời điểm từ tháng 2-3/2017).



Nhiều chuyển biến tích cực trong cải cách thủ tục hành chính

Theo khảo sát, các doanh nghiệp đã nhận thấy nhiều biến chuyển tích cực trong môi trường làm việc, đặc biệt là thủ tục hành chính tại các cơ quan Nhà nước được đổi mới, tiến hành nhanh gọn, đơn giản, nhiều thủ tục được chuyển sang thực hiện qua mạng (bảo hiểm xã hội, kê khai thuế, một số thủ tục đăng ký kinh doanh) giúp giảm thiểu thời gian, công sức cũng như chi phí

Đánh giá về tính hiệu quả của các hoạt động của các bộ, ngành và các UBND tỉnh/thành phố nhằm cải cách hành chính, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp, có khoảng 60% ý kiến từ doanh nghiệp cho rằng các hoạt động của các bộ ngành và các UBND tỉnh, thành phố “Rất hiệu quả” và “Hiệu quả”. Trong đó, tỷ lệ doanh nghiệp đánh giá hoạt động “Đẩy mạnh triển khai có hiệu quả việc thực hiện cơ chế một cửa và một cửa liên thông” là “Rất hiệu quả” và “Hiệu quả” là cao nhất (chiếm 74,9%) và việc “Thành lập và công khai đường dây nóng” và việc “Quán triệt cán bộ công chức về đạo đức công vụ” có tỷ lệ doanh nghiệp đánh giá “Rất hiệu quả và “Hiệu quả” thấp nhất, chiếm khoảng gần 60%.

Thực tế cho thấy, việc cải cách thủ tục hành chính theo cơ chế “một cửa”, “một cửa liên thông” đã thu được một số kết quả rất khả quan, giúp rút ngắn được thời gian, đơn giản hoá thủ tục và công khai nên đảm bảo tốt hơn quyền, lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp. Riêng ngành thuế và hải quan có rất nhiều nỗ lực, cải thiện nhằm phục vụ tốt hơn cho doanh nghiệp. Trong lĩnh vực hiện đại hóa hải quan, quy trình thủ tục hành chính được cải tiến, bỏ nhiều khâu trung gian theo hướng tổ chức dây chuyền thủ tục hải quan hoàn chỉnh, một cửa, do đó đã giảm đáng kể thời gian thông quan.

Tuy nhiên, việc thực hiện cơ chế "một cửa", "một cửa liên thông" còn những hạn chế như nhiều nơi, nhiều chỗ kết quả giải quyết hồ sơ hành chính trên một số lĩnh vực cho tổ chức, công dân vẫn còn thấp so với yêu cầu đề ra. Nhiều hồ sơ giải quyết chưa đúng hẹn, nhất là trên lĩnh vực đất đai, xây dựng.

Đáng chú ý, đa số UBND các tỉnh, thành phố, sở, ban ngành chưa công khai, minh bạch việc giải quyết thủ tục hành chính đối với hồ sơ của DN trên website để DN có thể truy cập vào, biết hồ sơ của DN đã được giải quyết đến đâu và đang ở bộ phận nào.

Quỹ phát triển DNNVV chưa phát huy tác dụng

Đánh giá về tác động tới doanh nghiệp của các nhóm giải pháp được đưa ra trong Nghị quyết 35 nhằm tạo dựng môi trường thuận lợi, hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo, theo khảo sát, có khoảng 35-40% ý kiến từ doanh nghiệp đánh giá các giải pháp này có tác động “Tương đối tích cực”, “Tích cực” và “Rất tích cực”. Trong đó, “Các chính sách hỗ trợ khởi nghiệp”có tỷ lệ cao nhất (80%); “Quỹ phát triển DNNVV” có tỷ lệ đánh giá thấp nhất (67%).

Mặc dù Nghị quyết 35/NQ-CP đã nêu rõ là “cần phải có những biện pháp đẩy mạnh việc thực hiện hoặc bổ sung chức năng nhiệm vụ cho Quỹ Phát triển DNNVV nhằm tăng cường vốn cho doanh nghiệp khởi nghiệp”, Quỹ Phát triển DNNVV được đánh giá có tác động ít tích cực nhất đến DN trong thời gian qua.

Khó tiếp cận nguồn vốn vay luôn là nỗi lo thường trực của các DNNVV. Quỹ Phát triển DNNVV được kỳ vọng sẽ cung cấp thêm nguồn vốn vay ưu đãi, hỗ trợ DN. Tuy nhiên, tiếp cận nguồn vốn của quỹ này cũng không phải dễ dàng. Doanh nghiệp cần phải có có dự án, phương án sản xuất - kinh doanh khả thi thuộc danh mục các lĩnh vực ưu tiên hỗ trợ của Quỹ. Doanh nghiệp có dự án, phương án sản xuất - kinh doanh khả thi được hỗ trợ vay vốn từ Quỹ thì không được hỗ trợ vay vốn ưu đãi từ các tổ chức tín dụng khác của Nhà nước. Một điều kiện khác nữa là mức vốn cho vay đối với mỗi dự án, phương án sản xuất -kinh doanh tối đa bằng 70% tổng mức vốn đầu tư của từng dự án, phương án đó (không bao gồm vốn lưu động) nhưng không quá 30 tỷ đồng. Với quy định về lãi suất cho vay và những điều kiện "chuẩn" như vậy Quỹ Phát triển DNNVV chưa hẳn là quá ưu đãi so với các ngân hàng thương mại nên các doanh nghiệp cũng chưa hào hứng lựa chọn tiếp cận nguồn vốn này.

Một trong những giải pháp khác đề cập trong Nghị quyết là “phải có cơ chế, chính sách tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp tiếp cận đất đai”. Tuy vậy, các chính sách này vẫn chưa thực sự hiệu quả. Theo kết quả khảo sát, vẫn còn khoảng 28% ý kiến từ DN cho rằng chưa thấy rõ sự tác động tích cực của chính sách này tới doanh nghiệp. Khó khăn trong thỏa thuận giải phóng mặt bằng nhất là trong lĩnh vực đền bù, giải tỏa, tái định cư khi người dân bị thu hồi đất vẫn diễn ra. Thủ tục vẫn rườm rà, giao đất cho DN vẫn chậm; Quỹ đất “sạch” để khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh là các dự án phúc lợi xã hội công cộng vẫn chưa có.

Theo kết quả khảo sát, vẫn còn tồn tại khoảng 20% ý kiến từ doanh nghiệp cho rằng tác động tới doanh nghiệp của các nhóm giải pháp của các tổ chức tín dụng nhằm hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận vốn trong Nghị quyết là chưa rõ ràng. Nguyên nhân là do việc định giá tài sản thế chấp vay vốn là bất động sản thay đổi. Trước đây, các ngân hàng xem xét định giá theo thị trường nhưng quy định mới hiện nay lại xác định giá trị theo giá của nhà nước công bố hàng năm. Do đó cùng một tài sản thế chấp nhưng hạn mức cho vay bây giờ thấp hơn trước nên DN đang kẹt vốn trong sản xuất, trong tồn kho, lại phải chạy vạy để tìm nguồn tài chính bổ sung trong khi không còn tài sản thế chấp. Một nguyên nhân khác là một số DN không đủ khả năng tài chính để trả nợ hoặc quay vòng vốn, phải giữ vốn để tồn tại hoạt động và chấp nhận chịu nợ quá hạn tăng 150%, từ đó bị đánh giá là tình hình tài chính xấu, thông tin này được nối mạng trong toàn bộ hệ thống ngân hàng nên DN không còn khả năng để tiếp cận nguồn vốn tín dụng ở bất kỳ ngân hàng nào khác. Từ đó việc cơ cấu lại nợ, giãn nợ theo chủ trương của ngân hàng hiện nay xem như không tác dụng đối với những DN loại này. Một nguyên nhân khác là mặc dù Nghị quyết đã nêu rõ Ngân hàng nhà nước cần tiếp tục chỉ đạo các tổ chức tín dụng thực hiện những giải pháp nhằm hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận vốn tín dụng nhưng hiện doanh nghiệp lại đánh giá rằng các ngân hàng có xu hướng thắt chặt vốn tín dụng và định mức cho vay giảm sút.

Anh Mai