Công ty TNHH Cơ khí Việt Nhật: Sản xuất hiệu quả, phát triển ổn định

11:42:33 | 18/7/2017

Được thành lập từ năm 1996, Công ty TNHH Cơ khí Việt Nhật (viết tắt là VJE) là đơn vị liên doanh giữa Công ty TNHH Kyoei Industrial với các đối tác Việt Nam bao gồm: Tổng công ty thép Việt Nam và Công ty Matexim Hải Phòng. Sản phẩm chính của VJE là các chi tiết máy, phụ tùng cơ khí được chế tạo bằng gang đúc. Ở VJE có sự kết hợp hài hòa giữa văn hóa và tinh hoa quản trị Nhật Bản với sự thông minh, chăm chỉ, khéo léo và cầu thị của con người Việt Nam. Khi các doanh nghiệp Nhật Bản tìm kiếm cơ hội đầu tư bên ngoài Trung Quốc và Việt Nam là địa điểm hấp dẫn, đón bắt cơ hội này VJE đã có những điều chỉnh trong trong sản xuất, tập trung để tiếp cận và “chinh phục” khách hàng Nhật Bản. Nhờ vậy, Công ty bước vào giai đoạn phát triển nhanh và ổn định (từ năm 2010 - nay). Để tìm hiểu rõ về những lợi thế và kết quả đạt được của VJE trong thời gian qua, Tạp chí Vietnam Business Forum có buổi trao đổi với ông Shunzo Sakai, Tổng Giám đốc Công ty. Trịnh Trung Long thực hiện.

Thời gian gần đây, Việt Nam đang là điểm đến hấp dẫn của các nhà đầu tư Nhật Bản, là một CEO đến từ “đất nước mặt trời mọc”, xin ông cho biết những lý do chính để các doanh nghiệp Nhật lựa chọn Việt Nam để đầu tư kinh doanh?

Xuất phát từ thực tiễn, hiện nay, đang có một làm sóng nhà đầu tư Nhật Bản đang muốn “chuyển dịch” đầu tư ra khỏi Trung Quốc hoặc tìm kiếm thêm khu vực để đầu tư bên ngoài đất nước đông dân nhất thế giới này. Đây chính là cơ hội để các quốc gia khác như Ấn Độ, các nước Asean… đón nhận nguồn vốn, công nghệ đến từ Nhật Bản. Trong những sự lựa chọn đó, Việt Nam luôn được các doanh nghiệp Nhật Bản đánh giá cao. Theo tôi, có một số nguyên nhân chính như sau: Thứ nhất, Việt Nam và Nhật Bản có mối quan hệ tốt. Hai nước đã thiết lập quan hệ đối tác chiến lược toàn diện. Thứ hai, môi trường chính trị ở Việt Nam ổn định. Thứ ba, tình hình an ninh trật tự ở nước các bạn rất tốt. Thứ tư, Việt Nam có đội ngũ lao động trẻ, rất có năng lực, chịu khó học hỏi. Thứ năm, người Việt Nam nổi tiếng về sự khéo léo phù hợp nên với nhiều ngành nghề Nhật Bản đầu tư.

Đối với Công ty Kyoei Industrial, chúng tôi chọn Hải Phòng là điểm đến vì có thêm những điểm thuận lợi như: Hải Phòng có cảng biển nước sâu, rất thuận tiện cho quá trình nhập khẩu nguyên liệu và xuất khẩu thành phẩm. Hải Phòng tập trung nhiều doanh nghiệp ngành thép và cơ khí, đây có thể là khách hàng hoặc nhà cung cấp tốt cho nhà máy của chúng tôi. Nguồn nhân lực có trình độ như kỹ sư, công nhân qua đào tạo trong lĩnh vực cơ khí ở đây khá dồi dào. Cuối cùng, Hải Phòng có một cộng đồng doanh nghiệp và nhà đầu tư Nhật Bản khá đông và đang tăng lên qua từng năm.

Để nắm bắt cơ hội này, VJE đã có giải pháp nào để tiếp cận và thuyết phục đối tác, khách hàng?

Là doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp phụ trợ, VJE chắc chắn sẽ “hưởng lợi” khi thị trường có thêm nhiều nhà đầu tư, nhiều nhà máy đi vào hoạt động. Tuy nhiên, sân chơi cạnh tranh rất bình đẳng và quyết liệt. Để có được sự tin tưởng của các khách hàng Nhật Bản, chất lượng sản phẩm là điều quan trọng nhất. VJE luôn đáp ứng tốt nhất các tiêu chuẩn, tiêu chí kỹ thuật khách hàng đưa ra.

Song nếu chỉ có sản phẩm tốt thôi là chưa đủ. VJE còn đưa ra mức giá cạnh tranh (tương xứng với chất lượng), đồng thời đảm bảo chính xác về thời gian, giao nhận và cam kết có trách nhiệm xử lý các vấn đề đề phát sinh (sai, hỏng, điều chỉnh, sửa chửa…) trong và sau khi bán hàng.

Xin ông cho biết thêm, làm thế nào để VJE duy trì và ổn định chất lượng sản phẩm, đáp ứng yêu cầu cao của các đối tác?

Đầu tiên, VJE phải xây dựng quy trình sản xuất nghiêm ngặt theo tiêu chuẩn kỹ thuật rất cao của Nhật Bản. Chúng tôi thường xuyên đưa các chuyên gia người Nhật sang trực tiếp để hướng dẫn và tập huấn cho đội ngũ kỹ sư, cán bộ kỹ thuật. Ngoài việc đảm bảo thông số kỹ thuật chung (về tỷ lệ, thành phần, độ cứng, độ nhẵn bề mặt…), VJE luôn đáp ứng tốt những tiêu chuẩn bổ sung theo nhu cầu riêng của từng các khách hàng.

Trong quá trình sản xuất, có một số công đoạn, sự ổn định của sản phẩm phụ thuộc vào tay nghề và sự thuần thục của người công nhân kỹ thuật. Do đó, VJE rất quan tâm đến việc đào tạo và giữ chân đội ngũ lao động lành nghề này. Để khuyến khích người lao động làm việc tốt để hạn chế phế phẩm VJE xây dựng quy trình để đánh giá hiệu quả và chất lượng làm việc của từng cá nhân, từng bộ phận. Từ đó, có cơ chế thưởng phạt theo năng suất công việc. Mọi sự đánh giá, thưởng phạt đều công khai, minh bạch, vì vậy, các nhà máy của chúng tôi không chỉ đạt năng suất và còn hạn chế tối đa các phế phẩm, hiệu quả chung nâng lên rõ rệt.

Bên cạnh đó, VJE có bộ phận làm nhiệm vụ phân tích và kiểm tra chất lượng thành phẩm với thiết bị đo đạc có độ chính xác cao nhằm đảm bảo hạn chế ít nhất sản phẩm không đạt tiêu chuẩn giao cho khách hàng.

Với sự thay đổi như vậy, hiệu quả mang lại với VJE như thế nào, thưa ông?

Những năm gần đây, định hướng kinh doanh của chúng tôi khá rõ ràng. Đó là tập trung vào nhóm khách hàng đối tác đến từ Nhật Bản. Chúng tôi có nhiều thay đổi về cách tiếp cận thị trường và sản xuất cho phù hợp. Điều này mang lại những hiệu ứng rất tích cực. VJE đã có được sự tin tưởng khách hàng. Chúng tôi có khoảng 30 đối tác Nhật Bản có quan hệ hợp tác ổn định. Nhiều khách hàng đã hơn một lần đặt hàng chúng tôi.

Nhờ vậy, từ năm 2010, VJE liên tục có sự ổn định về khối lượng và doanh thu. Nếu năm 2010, VJE sản suất được 3.000 nghìn tấn sản phẩm các loại, doanh thu khoảng 4 triệu USD thì năm 2016 con số đó tăng lên là 6.300 tấn sản phẩm và 10,4 triệu USD doanh thu. VJE luôn thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ với nhà nước và chế độ phúc lợi cho người lao động.

Hải Phòng đã và đang nỗ lực cải thiện chỉ số môi trường đầu tư kinh doanh, lấy doanh nghiệp là đối tượng phục vụ. Để nâng cao hơn hiệu lực quản lý nhà nước, xin ông có thể chia sẻ một vài ý kiến khuyến nghị với các cấp quản lý?

Về tổng thể Hải Phòng có rất nhiều đổi mới trong đối thoại để tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, nhà đầu tư. Từ thực tiễn hoạt động của doanh nghiệp, tôi mong muốn thành phố cần tiếp tục đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính nói chung và lĩnh vực đầu tư nói riêng (vấn đề liên quan tới doanh nghiệp nước ngoài cấp phép, gia hạn, chuyển đổi….). Các đơn vị quản lý nhà nước chuyên môn như ngành thuế cần linh hoạt trong áp dụng, vận dụng thông tư nghị định để đảm bảo sự công bằng và hiệu quả cho doanh nghiệp. Tránh việc áp đặt và gây khó khăn trong thực hiện các chính sách về thuế.

Ngoài ra, các hạ tầng khác như điện nếu không có quy hoạch bổ sung nguồn thì với đà hồi phục kinh tế và hội nhập sâu rộng của Việt Nam, khả năng thiếu điện cho sản xuất ở Hải Phòng sẽ trở lại.