Bảo tồn và phát triển dòng vốn đầu tư của doanh nghiệp

09:23:13 | 2/10/2017

Một trong những yếu tố thu hút đầu tư sáng giá của Việt Nam đó là nền chính trị ổn định, các chính sách về tài khóa linh hoạt và ngày càng tiệm cận với chuẩn mực quốc tế, bảo vệ và phát huy được dòng vốn của cộng đồng DN,… giúp họ yên tâm khi đầu tư. Xung quanh chủ đề này, phóng viên đã có cuộc phỏng vấn ông Đinh Tiến Dũng, Bộ trưởng Bộ Tài chính. Lê Hiền thực hiện.

Xin ông cho biết những sáng kiến của Việt Nam trong khuôn khổ Tiến trình Bộ trưởng Tài chính APEC 2017?

Ngoài nội dung đánh giá tình hình kinh tế, tài chính thế giới và khu vực, kiểm điểm tiến trình hợp tác tài chính, với vai trò chủ trì Tiến trình Bộ trưởng Tài chính APEC 2017, Bộ Tài chính Việt Nam đã đề xuất bốn chủ đề ưu tiên hợp tác trong năm, bao gồm: Tài chính cho cơ sở hạ tầng; Xói mòn cơ sở tính thuế và chuyển lợi nhuận; Tài chính và bảo hiểm rủi ro thiên tai và Tài chính bao trùm. Các chủ đề này được xây dựng trên nền chủ đề quốc gia APEC 2017 “Tạo thêm động lực mới, cùng vun đắp tương lai”, đồng thời tiếp nối các định hướng dài hạn của Kế hoạch Hành động Cebu đã được các Bộ trưởng Tài chính APEC thông qua năm 2015.

Các chủ đề hợp tác này hướng tới các giải pháp mới về tài chính, đặc biệt gắn với các trụ cột quốc gia về thúc đẩy tăng trưởng bền vững, sáng tạo và bao trùm và đẩy mạnh liên kết kinh tế khu vực sâu rộng. Bên cạnh đó, các chủ đề này cũng gắn kết mối quan tâm và lợi ích của các nền kinh tế thành viên APEC trong nỗ lực giải quyết các vấn đề chung của khu vực như tìm kiếm các nguồn lực tài chính cho phát triển cơ sở hạ tầng, nâng cao năng lực quản lý thuế và hoàn thiện hệ thống thuế để ứng phó với các thách thức về thuế toàn cầu, tìm kiếm các công cụ tài chính mới giúp cải thiện bền vững tài chính ứng phó với những rủi ro thiên tai, tăng cường khả năng tiếp cận các nguồn lực tài chính của các đối tượng khó khăn, đặc biệt là khu vực nông nghiệp nông thôn, qua đó thúc đẩy tăng trưởng bền vững và bao trùm.

Việt Nam là đất nước đang phát triển mạnh về cơ sở hạ tầng, xin ông cho biết những giải pháp của Việt Nam trong thu hút đầu tư phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng để hấp dẫn các nhà đầu tư quốc tế?

Theo số liệu báo cáo của ADB, nhu cầu đầu tư xây dựng mới và nâng cấp cơ sở hạ tầng của Việt Nam đến năm 2030 khoảng 480 tỷ USD. Trong những năm gần đây, Việt Nam đã chú trọng dành nguồn lực cho đầu tư cơ sở hạ tầng, với quy mô đầu tư hàng năm chiếm khoảng 5,7% GDP, là mức khá cao so với các nước trong khu vực. Tuy nhiên hiện ngân sách Bhà nước chỉ đáp ứng khoảng 20%-30% nhu cầu vốn đầu tư vào hạ tầng. Do đó, việc huy động các nguồn vốn tư nhân, đặc biệt là các nhà đầu tư nước ngoài tham gia vào đầu tư phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng là rất quan trọng.

Việt Nam đang hoàn thiện hệ thống pháp lý theo hướng minh bạch, tiệm cận thông lệ quốc tế. Hiện nay, Chính phủ đang nghiên cứu nâng cấp Nghị định số 15/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015 về đầu tư theo hình thức PPP thành Luật PPP. Chú trọng nâng cao chất lượng công tác chuẩn bị đầu tư, công khai, minh bạch thực hiện lựa chọn nhà thầu, nhà đầu tư có năng lực, kinh nghiệm để giảm thiểu rủi ro trong quá trình thực hiện đầu tư; ưu tiên bố trí nguồn vốn đầu tư công cho các dự án hạ tầng có tác động liên vùng, liên tỉnh, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Một trong những vấn đề mà nhà đầu tư hạ tầng lo ngại đó là giải phóng mặt bằng, thời gian tới cam kết đảm bảo giao mặt bằng sạch cho nhà đầu tư theo đúng tiến độ của dự án; trong một số trường hợp cần thiết sẽ bố trí nguồn vốn ngân sách Nhà nước để thực hiện công tác giải phóng mặt bằng, tái định cư hoặc xây dựng các hạng mục phụ trợ hỗ trợ cho các dự án theo mô hình hợp tác công - tư (PPP).

Về chính sách thuế, phí, giá liên quan sẽ tiếp tục được đổi mới theo hướng hài hòa lợi ích của Nhà nước, nhà đầu tư và người dân, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các nhà đầu tư thực hiện dự án hạ tầng. Theo quy định của Luật Phí và lệ phí (có hiệu lực từ ngày 01/01/2017), nhiều loại dịch vụ công được chuyển từ cơ chế phí sang cơ chế giá sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho khu vực tư nhân thu hồi vốn đầu tư và lợi nhuận hợp lý khi cung cấp công trình hạ tầng và dịch vụ công. Cải cách thủ tục hành chính liên quan đến thuế, hải quan tiếp tục được đẩy mạnh theo hướng đơn giản, minh bạch, tạo thuận lợi cho nhà đầu tư trong việc nhập khẩu trang thiết bị, máy móc phục vụ cho hoạt động đầu tư vào các dự án hạ tầng. Nghiên cứu, xây dựng chính sách kêu gọi các tổ chức đầu tư nước ngoài tham gia đầu tư cơ sở hạ tầng dưới nhiều hình thức khác nhau, bao gồm cả đối tác PPP.


 
Để môi trường đầu tư của Việt Nam hấp dẫn và cạnh tranh được với các nền kinh tế có cùng lợi thế thì yếu tố quan trọng hàng đầu là chiến lược về tài chính giúp doanh nghiệp ổn định dòng tiền và an tâm đầu tư. Xin ông cho biết chiến lược tổng quát của ngành? Những cải cách về thủ tục hành chính liên quan tới thuế và hải quan?

Mục tiêu đảm bảo môi trường đầu tư minh bạch, ổn định giúp doanh nghiệp an tâm đầu tư, kinh doanh là một trong những ưu tiên hàng đầu của Chính phủ. Tại phiên họp Chính phủ thảo luận về tình hình kinh tế xã hội 6 tháng đầu năm và các giải pháp cho nửa cuối năm 2017, Thủ tướng Chính phủ đã yêu cầu các bộ ngành cần thúc đẩy các giải pháp tạo điều kiện nâng cao hiệu quả hoạt động của khu vực tư nhân, đặc biệt là đẩy mạnh hơn nữa cải cách hành chính, tiếp tục đơn giản hoá thủ tục hành chính. Thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Tài chính đã xây dựng chương trình hành động để quyết liệt triển khai thực hiện Nghị quyết số 19-2017/NQ-CP ngày 06/02/2017 về tiếp tục thực hiện những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2017, định hướng đến năm 2020; triển khai Chính phủ điện tử theo Nghị quyết 36a/NQ-CP ngày 14/10/2015 với mục tiêu tiếp tục cải thiện môi trường kinh doanh, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, thực hiện đồng bộ, toàn diện các giải pháp cải cách hành chính trong lĩnh vực thuế và hải quan.

Trong thời gian tới, định hướng cải cách thủ tục hành chính liên quan đến lĩnh vực thuế và hải quan sẽ tập trung mạnh mẽ hơn, phấn đấu tới năm 2020, mức thuận lợi về thuế và hải quan của Việt Nam sẽ ngang bằng các nước ASEAN + 4. Tiếp tục tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền chính sách thuế, chính sách hải quan. Đồng thời tiếp tục rà soát, cập nhật bổ sung thông tin về hộ kinh doanh để triển khai thực hiện việc công khai các thông tin của hộ kinh doanh trên trang thông tin điện tử của cơ quan thuế. Ứng dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin vào cải cách thuế và hải quan. Ngành hải quan đang triển khai trọng tâm thực hiện Cơ chế một cửa quốc gia và Cơ chế một cửa ASEAN. Tính đến 30/6/2017, tổng số hồ sơ hành chính được xử lý thông qua Cơ chế một cửa quốc gia đạt hơn 416.600 với khoảng 12.700 doanh nghiệp tham gia, qua đó rút ngắn thời gian thông quan cho hàng hóa xuất nhập khẩu. Đối với ngành thuế đang tiếp tục xây dựng và nâng cấp ứng dụng công nghệ thông tin đáp ứng yêu cầu nghiệp vụ và công khai thông tin trên trang thông tin điện tử của Tổng cục Thuế; duy trì, nâng cấp ứng dụng công nghệ thông tin đạt 95% doanh nghiệp thực hiện kê khai, nộp thuế điện tử đạt cấp độ 4; phấn đấu thực hiện ứng dụng công nghệ thông tin đạt 95% doanh nghiệp thực hiện hoàn thuế điện tử đạt cấp độ 4; thực hiện ứng dụng công nghệ thông tin để 100% hồ sơ khiếu nại của người nộp thuế được giải quyết đúng thời gian quy định

Một vấn đề mà các nền kinh tế trong APEC đang gặp phải đó là chính sách về thuế (chuyển lợi nhuận, chuyển giá…), Hội nghị Bộ trưởng Tài chính APEC 2017 vào tháng 10/2017 sẽ đưa ra bàn thảo và xử lý vấn đề này như thế nào, thưa ông?

Một trong những ưu tiên của Tiến trình Bộ trưởng Tài chính APEC 2017 là tập trung thảo luận về sáng kiến Chống xói mòn cơ sở thuế và chuyển lợi nhuận (BEPS) nhằm tăng cường hợp tác và hỗ trợ kỹ thuật giữa các thành viên APEC trong việc nâng cao năng lực đối phó với các hành vi tránh thuế thông qua chuyển lợi nhuận, chuyển giá, lợi dụng các kẽ hở trong các quy định quản lý thương mại điện tử, trong các hiệp định thuế giữa các quốc gia.

Các bộ trưởng sẽ nghe báo cáo về kết quả hoạt động hợp tác liên quan đến chủ đề BEPS trong năm 2017 và định hướng hợp tác trong năm APEC 2018. Dự kiến một chương trình hợp tác hỗ trợ lẫn nhau trong các nền kinh tế APEC nhằm thực hiện các hành động BEPS sẽ được thông qua, tập trung vào một số nội dung được các nền kinh tế thành viên APEC quan tâm, qua đó thúc đẩy việc triển khai các hành động BEPS tại các nền kinh tế đang phát triển trong APEC, bao gồm cả các biện pháp quản lý thuế và hợp tác quốc tế của các cơ quan quản lý thuế để thực hiện kế hoạch hành động BEPS.