Y tế Việt Nam - Những bước tiến vững chắc

11:00:52 | 22/10/2010

Tình trạng quá tải tại các bệnh viện được cải thiện đáng kể, công tác quản lý điều hành liên tục được đổi mới về nội dung và hình thức, triển khai có hiệu quả các nhiệm vụ trọng tâm về phòng và khám chữa bệnh…là những đột phá mà ngành Y tế Việt Nam đã đạt được trong nhiều năm qua, đánh dấu sự phát triển về chất lượng của công tác chăm sóc và bảo vệ sức khỏe cộng đồng…”. Đây là khẳng định của Bộ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Quốc Triệu khi trao đổi với phóng viên Tạp chí Vietnam Business Forum.

Nói về thành tựu của ngành Y tế sau 35 năm thống nhất đất nước, theo Bộ trưởng đâu là những thành tựu nổi bật nhất?

Trước hết phải đề cập tới vấn đề củng cố và phát triển mạng lưới y tế rộng khắp trong cả nước từ TW tới các xã, thôn/bản/ấp. Trải qua những thăng trầm trong chặng đường phát triển, đến nay hơn 98% xã đã có nhà trạm, 100% xã có cán bộ y tế hoạt động; cả nước có gần 14.000 cơ sở y tế, trong đó có hơn 100 bệnh viện ngoài công lập, khoảng 230.000 giường bệnh với trên 300.000 cán bộ y tế. Số giường bệnh cũng như số cán bộ y tế phục vụ dân tăng lên đáng kể, tạo điều kiện để mọi người dân đều được tiếp cận với các dịch vụ y tế cơ bản, có chất lượng.

Cùng với mạng lưới y tế được chú trọng mở rộng, nhiều kỹ thuật mới, tiên tiến trên thế giới và khu vực đã được áp dụng thành công ở Việt Nam. Một số kỹ thuật đạt trình độ ngang tầm với các nước trong khu vực như: thụ tinh trong ống nghiệm; mổ thần kinh-sọ não bằng dao Gama; mổ tim hở; tách song sinh; đặc biệt là phẫu thuật nội soi cắt 95% tuyến tụy, mổ thoát vị cơ hoành...

Hệ thống y tế dự phòng được củng cố, có khả năng dự báo và dập dịch kịp thời, nhiều năm liền không có dịch lớn xảy ra. Việt Nam tự hào được thế giới công nhận là một trong số các nước có khả năng khống chế dịch SARS nhanh nhất. Kiểm soát chặt chẽ và khống chế kịp thời dịch cúm A (H5N1; H1N1) và một số bệnh dịch nguy hiểm khác. Ngoài ra tất cả người nghèo và các đối tượng chính sách xã hội đều được chăm sóc y tế chu đáo thông qua chính sách hỗ trợ của Nhà nước. Đặc biệt song hành cùng sự phát triển của toàn ngành, năng lực cán bộ y tế được nâng cao; ngành y tế cũng là một trong số ít ngành có tỷ lệ giáo sư, tiến sỹ cao.

Thành tựu thì rất nhiều nhưng ở đây tôi chỉ muốn đề cập đến một số thành tựu mà khó khăn và lâu dài lắm ngành y tế mới đạt được. Và thành quả này thể hiện sự nỗ lực phấn đấu không mệt mỏi của toàn ngành cũng như của từng cán bộ y tế trong suốt 35 năm qua.

So với mức độ tăng dân số và sự phát triển kinh tế, hệ thống hạ tầng y tế hầu như không đáp ứng kịp, tuy nhiên việc xã hội hoá trong lĩnh vực y tế theo một số nhà đầu tư thì chưa được rộng rãi và thông thoáng, Bộ trưởng nghĩ sao về vấn đề này?

Tôi chưa đồng tình lắm với nhận định này. Mặc dù hệ thống hạ tầng y tế còn chưa đáp ứng nhu cầu người dân song trong vài năm vừa qua, Nhà nước đã cố gắng đầu tư cho y tế thông qua các chương trình trái phiếu Chính phủ. Chi phí đầu tư phát triển trong tổng chi y tế quốc gia cho thấy chiếm tỷ lệ dao động xung quanh 10% tổng chi y tế và có xu hướng giảm; song từ năm 2008 đến nay đã có sự gia tăng nhờ các chương trình trái phiếu Chính phủ 47 và 930.

Về xã hội hoá công tác y tế, trong lĩnh vực hành nghề y tư nhân, theo Cục Quản lý khám chữa bệnh, trong vòng hai năm kể từ năm 2008, tổng số bệnh viện tư nhân trên cả nước đã tăng lên đáng kể, góp phần giảm tải cho các bệnh viện công. Hiện nay cả nước có 100 bệnh viện tư nhân đang hoạt động, tập trung nhiều nhất ở Tp.Hồ Chí Minh (30 bệnh viện) và Hà Nội (12 bệnh viện). Quy mô các bệnh viện tư nhìn chung còn khá khiêm tốn.

Về đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực y tế, theo Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), cả nước có trên 70 dự án đầu tư nước ngoài trực tiếp vào lĩnh vực y tế với tổng vốn đăng ký gần 1 tỷ USD. Mặc dù vốn đầu tư FDI vào y tế còn khiêm tốn, song tôi cho rằng trong những năm tới, số bệnh viện tư nhân và bệnh viện có vốn FDI sẽ tăng mạnh khi một loạt chính sách ưu đãi đầu tư vào lĩnh vực khám chữa bệnh được triển khai, đặc biệt các rào cản trong hoạt động y tế tư nhân sẽ được tháo gỡ khi áp dụng chính sách ưu đãi đặc biệt về thuế.

Về môi trường chính sách, pháp lý, bên cạnh việc cải thiện môi trường đầu tư nói chung, Luật đầu tư 2005 và Luật Doanh nghiệp 2005 ra đời đã tạo bước tiến mạnh mẽ trong việc điều chỉnh, cải thiện môi trường đầu tư để tạo thêm lực hấp dẫn đối với các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Chính phủ Việt Nam cũng sửa đổi nhiều chính sách để khuyến khích đầu tư trong lĩnh vực y tế. Theo đó, doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực y tế được áp dụng mức thuế thu nhập doanh nghiệp 10% trong suốt thời gian hoạt động, thay vì 28%. Một số loại dự án đầu tư, mở rộng, xây mới bệnh viện cũng được vay vốn vay tín dụng phát triển thông qua Ngân hàng Phát triển Việt Nam. Ngoài ra, theo cam kết của Việt Nam khi gia nhập WTO, nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài được cung cấp dịch vụ thông qua thành lập bệnh viện 100% vốn nước ngoài, liên doanh với đối tác Việt Nam hoặc thông qua hợp đồng hợp tác kinh doanh. Do đó, chúng ta kỳ vọng sắp tới lĩnh vực y tế sẽ nhận được sự quan tâm nhiều hơn của nhà đầu tư nước ngoài.

Trong thời gian tới, để tăng cường đầu tư vào lĩnh vực y tế, bản thân tôi thiết nghĩ cần tiếp tục hoàn thiện cơ chế chính sách, thực hiện hiệu quả hơn công tác xúc tiến và kêu gọi đầu tư; đồng thời tiếp tục cải tiến thủ tục hành chính, xây dựng mối quan hệ đối tác công tư cùng phát triển.

Để giải quyết tình trạng quá tải tại các bệnh viện tuyến trên, ngành y tế khuyến cáo bước đầu người dân nên khám bệnh tại y tế cơ sở trước. Tuy nhiên người bệnh thường không yên tâm khi khám tại cơ sở vì thiếu cán bộ và phương tiện tối thiểu. Bộ Y tế có định hướng gì để giải quyết tình trạng này?

Tại Việt Nam, tình trạng quá tải tại một số bệnh viện tuyến trên chủ yếu do nhu cầu khám chữa bệnh tăng cao, mô hình bệnh tật thay đổi, tỷ lệ giường bệnh trên vạn dân còn thấp (18 giường bệnh/vạn dân), năng lực y tế tuyến cơ sở còn nhiều hạn chế…

Để góp phần giải quyết tình trạng quá tải tại các bệnh viện tuyến trên, Bộ Y tế đã ban hành Chỉ thị 06/2007/CT-BYT về chống quá tải và nâng cao chất lượng khám chữa bệnh. Đồng thời tăng cường năng lực cho tuyến y tế cơ sở thông qua triển khai Đề án luân phiên, luân chuyển cán bộ từ tuyến trên hỗ trợ các bệnh viện tuyến dưới (Đề án 1816) nhằm nâng cao chất lượng điều trị và chuyển giao công nghệ cho tuyến dưới; thực hiện chống quá tải từ xa, đặc biệt cho miền núi, vùng sâu, xa, kinh tế xã hội khó khăn. Ngoài ra Bộ cũng đã triển khai thực hiện Đề án “Đầu tư xây dựng, cải tạo, nâng cấp bệnh viện đa khoa huyện và đa khoa khu vực liên huyện sử dụng vốn trái phiếu Chính phủ và các nguồn vốn hợp pháp khác giai đoạn 2008-2010” theo Quyết định số 47/2008/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ.

Những kết quả đạt được ban đầu rất khả quan, theo đó thời gian tới để tăng cường hiệu quả giảm tải cho các bệnh viện tuyến trên và nâng cao năng lực cho tuyến y tế cơ sở, Bộ Y tế chủ trương tập trung nguồn vốn để hoàn thiện các dự án đầu tư cải tạo, mở rộng cơ sở cũ và xây dựng mới cơ sở 2 của các bệnh viện đã có đề án được phê duyệt, đặc biệt là các bệnh viện trực thuộc Bộ đang có tình trạng quá tải nghiêm trọng. Đầu tư và phát triển 4 Trung tâm y tế chuyên sâu Hà Nội, Tp.Hồ Chí Minh, Huế/Đà Nẵng và Cần Thơ làm hạt nhân về khoa học kỹ thuật và công nghệ y học, tạo đà phát triển y học kỹ thuật cao tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển chuyên môn và chuyển giao kỹ thuật, thúc đẩy sự phát triển của y học Việt Nam. Ngoài ra Bộ cũng sẽ chú trọng triển khai có hiệu quả Đề án 47 và Đề án 930 nhằm tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị, năng lực chuyên môn cho tuyến tỉnh và tuyến huyện, kết hợp với thực hiện liên tục Đề án 1816 nhằm tăng cường năng lực cho tuyến tỉnh, tuyến huyện. Đồng thời hoàn thiện quy hoạch mạng lưới khám chữa bệnh, tăng số giường bệnh trên đầu dân, xây dựng thêm các bệnh viện mới song song với đẩy mạnh xã hội hoá, đa dạng hoá các loại hình dịch vụ khám, chữa bệnh. Xây dựng chính sách đãi ngộ đối với cán bộ tuyến y tế cơ sở, có chính sách thu hút cán bộ về công tác tại y tế cơ sở đồng thời xây dựng chính sách, nghĩa vụ xã hội của thầy thuốc trong việc phát triển y tế cơ sở và y tế vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn.

Tại các cuộc hội thảo Quản lý Bệnh viện châu Á (HMA) hàng năm, theo Bộ trưởng các nhà lãnh đạo bệnh viện tại Việt Nam cần quan tâm học hỏi những điều gì?

Hội thảo HMA hàng năm là một diễn đàn bổ ích đối với các nhà lập chính sách và đặc biệt là các nhà quản lý y tế, quản trị bệnh viện châu Á. Hệ thống bệnh viện của Việt Nam hiện nay có cả bệnh viện công lập và ngoài công lập, trong đó công lập vẫn chiếm vai trò chủ đạo với hơn 90% số bệnh viện và số giường bệnh. Các cán bộ quản lý bệnh viện công lập chủ yếu là những người có chuyên môn nhưng đa số còn thiếu kinh nghiệm làm quản trị bệnh viện chuyên nghiệp, trong đó một số lĩnh vực còn hạn chế là quản lý kinh tế - tài chính trong y tế, quản lý chất lượng bệnh viện, ứng dụng công nghệ thông tin... Vì vậy, với những kinh nghiệm được chia sẻ từ hội thảo HMA, các lãnh đạo bệnh viện công lập của Việt Nam sẽ có cơ hội học hỏi những kinh nghiệm quý giá trong lĩnh vực này. Ngoài ra cán bộ quản trị bệnh viện tư nhân của Việt Nam cũng sẽ có dịp trao đổi và chia sẻ kinh nghiệm với các bệnh viện tư nhân quốc tế khác.

Ngoài ra, những chính sách đổi mới về cơ chế quản lý đối với các cơ sở khám, chữa bệnh công lập cùng với các chính sách đổi mới y tế khác đòi hỏi vấn đề quản lý bệnh viện hiện nay (đặc biệt là các bệnh viện công lập) cần có quan điểm và kỹ năng quản lý mới so với cơ chế bao cấp trước đây nhằm tăng cường hiệu quả sử dụng nguồn lực và nâng cao chất lượng dịch vụ. Xuất phát từ yêu cầu này, việc tham dự hội thảo HMA hàng năm sẽ trở nên rất bổ ích đối với các lãnh đạo bệnh viện của Việt Nam. Đây là cơ hội vàng để các lãnh đạo học hỏi những nội dung còn hạn chế trong quản lý y tế cũng như quản trị bệnh viện, từng bước nâng cao chất lượng hoạt động của bệnh viện mình.

Xin cảm ơn Bộ trưởng!

Ngọc Trang (thực hiện)