10:11:06 | 9/11/2020
Trước bối cảnh hội nhập quốc tế và sự phát triển của cuộc cách mạng 4.0, Việt Nam cần hướng tới đổi mới, tái cấu trúc và hoàn thiện mô hình các KCN nhằm bắt kịp với xu thế toàn cầu. Phát triển các KCN đảm bảo hài hòa lợi ích, lâu dài, lấy hiệu quả KT-XH, bảo vệ môi trường và phát triển bền vững là mục tiêu cao nhất.
Tỷ lệ lấp đầy cao nhưng tỷ suất thu hút đầu tư thấp
Sau hơn 30 năm phát triển, các KKT, KCN đã ngày càng trở thành mô hình thuận lợi để thu hút đầu tư, bao gồm cả đầu tư trong nước và nước ngoài. Theo thống kê, tính đến hết tháng 6/2020, các KCN, KKT trong cả nước đã thu hút được 9.835 dự án đầu tư nước ngoài, với tổng vốn đăng ký đạt khoảng 197,8 tỷ USD. Bên cạnh đó, còn có 9.650 dự án đầu tư trong nước, với tổng vốn đầu tư khoảng 2,31 triệu tỷ đồng. Vốn đầu tư thực hiện đạt khoảng 46,3%.

Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tính đến cuối tháng 6/2020, ngoài 336 KCN đã thành lập, có tổng diện tích khoảng 97.800 ha với cơ sở hạ tầng công nghiệp, dịch vụ kho bãi, logistic… đang tiếp tục phát triển mạnh để đáp ứng nhu cầu đầu tư, phát triển cơ sở sản xuất của các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Ngoài ra, cả nước còn có 17 KKT ven biển đã được thành lập với tổng diện tích mặt đất và mặt nước đạt hơn 845.000 ha, diện tích đất đã cho thuê trong các khu chức năng trong KKT đạt trên 40.000 ha. Trong các KKT, có 38 KCN với tổng diện tích khoảng 16.600 ha, diện tích đất công nghiệp đạt gần 10.000 ha. 20 KCN trong số này đã đi vào hoạt động, với tổng diện tích khoảng 8.500 ha.
Trước đó, theo CBRE, tỉ lệ lấp đầy trung bình của các khu công nghiệp tính đến cuối năm 2019 tại các tỉnh/ thành phố lớn phía Bắc và phía Nam lần lượt là hơn 92% và 80%.
Bên cạnh đó, trong 2 năm qua, nguồn cung nhà xưởng xây sẵn đã tăng lên đáng kể trong các khu công nghiệp lớn của Việt Nam. Tính đến năm 2019, khu vực phía Nam Việt Nam (bao gồm TP HCM, Bình Dương, Đồng Nai và Long An) đã chào đón khoảng 380.500 m2 nhà xưởng xây sẵn, tăng 18,9% so với cùng kì năm trước. Trong khi đó, nguồn cung trong năm 2019 của khu vực phía Bắc (bao gồm Hà Nội, Hải Phòng, Bắc Ninh, Hải Dương và Hưng Yên) là 321.420 m2, tăng 25,2% so với cùng kì năm 2018.
Những con số trên cho thấy sức hút rất lớn của các KCN, KKT. Tuy nhiên, tỷ suất thu hút đầu tư trung bình của các dự án đầu tư trong KCN chỉ là 4,61 triệu USD/ha đất công nghiệp cho thuê. Tỷ lệ này tuy có gia tăng qua các thời kỳ nhưng vẫn tương đối thấp. Bên cạnh đó, tình trạng dự án chậm triển khai, xin giao đất, cho thuê đất vượt quá nhu cầu còn khá phổ biến, làm ảnh hưởng đến hiệu quả đầu tư.
Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, chất lượng, hiệu quả thu hút đầu tư vào KCN, KKT hiện chưa đáp ứng yêu cầu phát triển theo chiều sâu; liên kết, hợp tác trong KCN, KKT, giữa các khu với nhau và giữa KCN, KKT với khu vực bên ngoài còn hạn chế. Các địa phương và nhà đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng KCN vẫn tập trung phát triển KCN theo “chiều rộng”, thu hút mạnh nhà đầu tư thứ cấp; chưa thực sự chú trọng phát triển theo “chiều sâu” hướng tới cơ cấu ngành nghề có giá trị gia tăng cao, công nghệ hiện đại và bảo vệ môi trường. Hiện mới chỉ xuất hiện một số mô hình hợp tác sản xuất đơn lẻ trong KCN, KKT, tác động chưa nhiều đến sản xuất công nghiệp địa phương, rất khó để doanh nghiệp trong nước tham gia vào chuỗi giá trị của doanh nghiệp FDI.
Nguyên nhân thì có nhiều, song một trong những yếu tố mấu chốt được chỉ ra là do hệ thống chính sách ưu đãi đầu tư, hỗ trợ đầu tư của Việt Nam nói chung, của KCN, KKT nói riêng thiếu hiệu quả để định hướng dòng đầu tư. Trong khi đó, câu chuyện thu hút đầu tư trong tình hình mới hoàn toàn khác. Việt Nam cũng đang mong muốn “dẫn” dòng vốn đầu tư có chất lượng vào Việt Nam, “bắt” dòng vốn đó phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của mình.
Đón sóng đầu tư mới
Nhiều nhà đầu tư quốc tế đang hướng vào Việt Nam nhằm tìm kiếm cơ hội chuyển dịch chuỗi sản xuất đang bị ảnh hưởng nặng nề bởi đại dịch Covid-19 và các yếu tố địa chính trị trên thế giới.

Số liệu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho thấy, thu hút đầu tư nước ngoài trong 10 tháng đầu năm 2020 của Việt Nam vẫn tương đối khả quan, đạt 23,4 tỷ USD (giảm 19,4% so với cùng kỳ năm 2019). Vốn thực hiện đạt 15,8 tỷ USD, chỉ giảm 2,5% so với cùng kỳ. Đây là mức giảm thấp hơn nhiều so với thế giới và các nước trong khu vực. Bên cạnh đó, vốn đăng ký mới cũng chỉ giảm nhẹ 9,1% so với cùng kỳ, trong khi vốn tăng thêm đạt 5,7 tỷ USD, tăng 4,4%.
Đây là những tín hiệu tích cực, thể hiện sự tin tưởng của nhà đầu tư nước ngoài đối với môi trường đầu tư của Việt Nam. Việc kiểm soát tốt dịch Covid-19 cùng sự nỗ lực cải thiện môi trường đầu tư, cải cách thủ tục hành chính... đã giúp dòng vốn đầu tư nước ngoài tiếp tục coi Việt Nam là một điểm đến hấp dẫn.
Với những lợi thế về nguồn nhân lực dồi dào, thị trường tiềm năng, chi phí cạnh tranh, chính sách ưu đãi hấp dẫn, nền kinh tế đang hội nhập ngày càng sâu rộng và vị trí địa lý thuận lợi, Việt Nam trở thành điểm đến tiềm năng cho các nhà sản xuất hàng đầu trên thế giới về đây đặt các nhà máy sản xuất và những lợi thế đó đã được phát huy một cách tích tực.
Việc chuẩn bị những KCN “sạch” với đầy đủ hạ tầng, hay với một mức giá cạnh tranh, ổn định, để đón sóng đầu tư mới đang là vấn đề được quan tâm. Không chỉ đơn thuần là chuẩn bị quỹ đất sạch, Việt Nam còn cần mở rộng các mô hình KCN chuyên sâu, KCN sinh thái để phù hợp với nhu cầu của nhà đầu tư.
Trước thực tế trên, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đang tiến hành rà soát quỹ đất khu công nghiệp, đào tạo nguồn nhân lực, xây dựng chương trình hành động, thúc đẩy công nghiệp hỗ trợ, kết nối với các dự án đầu tư nước ngoài lớn…
Bộ cũng đang tiến hành các hoạt động Tổng kết 30 năm phát triển khu công nghiệp, khu kinh tế ở Việt Nam để đưa ra các định hướng chiến lược phát triển khu công nghiệp, khu kinh tế thời gian tới. Theo đó, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã kiến nghị Thủ tướng nhiều nội dung liên quan đến quy hoạch, phát triển các mô hình khu công nghiệp mới như: Xây dựng quy hoạch khu công nghiệp gắn với đô thị, dịch vụ, khu công nghiệp sinh thái tại một số địa phương trên cơ sở lợi thế, điều kiện và khả năng thực hiện; Quy hoạch khu công nghiệp gắn đồng bộ với phát triển đô thị, dịch vụ trong một phương án tổng thể, thống nhất, làm cơ sở cho việc thu hút đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng.
Bên cạnh đó, sẽ phát triển khu công nghiệp hỗ trợ, khu công nghiệp chuyên dành cho một ngành hoặc nhóm ngành nhất định như các ngành công nghiệp nền tảng, chiến lược, có lợi thế cạnh tranh, ngành công nghiệp hỗ trợ ưu tiên phát triển, ngành công nghiệp đón đầu cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, hoạt động R&D; khu công nghiệp hoặc phân khu công nghiệp dành cho doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp khởi nghiệp, doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực đổi mới sáng tạo...; định hướng và thực hiện thí điểm một số cụm liên kết ngành nhằm hình thành mạng sản xuất, chuỗi cung ứng và tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu tại một số địa phương…
Các nội dung này sẽ được cụ thể hóa và kiến nghị Thủ tướng Chính phủ tại Hội nghị tổng kết 30 năm xây dựng và phát triển khu công nghiệp, khu kinh tế dự kiến thực hiện vào cuối năm 2020 và sẽ được quy định cụ thể tại Nghị quyết của Chính phủ về triển khai các giải pháp đổi mới, nâng cao hiệu quả phát triển khu công nghiệp, khu kinh tế trong giai đoạn tới.
Quỳnh Chi (Vietnam Business Forum)
từ ngày 18 – 19/12/2025
VCCI
từ 11/11/2025 đến 30/11/2025
VCCI