10:23:45 | 30/5/2025
Sự phát triển và tăng trưởng của Việt Nam trong những thập kỷ qua đã diễn ra song song với những thay đổi về thể chế qua các năm. Việt Nam đã tăng cường quyền sở hữu, cải thiện tính minh bạch, trao quyền tự chủ lớn hơn cho chính quyền địa phương và các đơn vị cung cấp dịch vụ, và giúp cho quá trình lập pháp của đất nước trở nên chặt chẽ hơn. Tất cả những điều này diễn ra đồng thời với quá trình Việt Nam hội nhập sâu hơn với các thị trường quốc tế và chuỗi giá trị toàn cầu, cũng như sự lớn mạnh của cộng đồng doanh nghiệp.
Tập trung tháo gỡ điểm nghẽn thể chế
Theo báo cáo “Việt Nam 2045 - đột phá: Thể chế cho một ương lai thu nhập cao” của WB vừa công bố, Việt Nam đang trong quá trình cải cách thể chế ở quy mô lớn – và chỉ diễn ra một lần trong mỗi thế hệ. Việc hợp nhất các bộ, ngành và các kế hoạch đã đưa ra về việc cắt giảm quy mô của bộ máy nhà nước thể hiện những thay đổi lớn đối với một quốc gia vốn có cách tiếp cận dè dặt trong cải cách. Tiếp nối đà tiến của một chương trình chống tham nhũng lớn, những cải cách thể chế như vậy cho thấy cam kết giải quyết những nút thắt có thể kìm hãm sự phát triển của đất nước.

Ngay trong Phiên họp Chính phủ chuyên đề về xây dựng pháp luật tháng 5/2025, Thủ tướng Phạm Minh Chính - một lần nữa- đã yêu cầu cần tập trung nguồn lực, quyết tâm cơ bản hoàn thành việc tháo gỡ những "điểm nghẽn" do quy định pháp luật ngay trong năm 2025, đồng thời đổi mới căn bản tư duy xây dựng pháp luật, chuyển từ tư duy "quản lý" sang "phục vụ", từ bị động sang chủ động, linh hoạt kiến tạo sự phát triển.
Những thập kỷ kể từ sau Đổi mới đã ghi dấu tiến bộ từng bước về quyền tiếp cận thông tin, huy động sự tham gia của người dân, quyền sở hữu, phân cấp, các thể chế về quản lý nhà nước cũng như về sự phát triển của khu vực tư nhân, cùng các cơ chế đảm bảo trách nhiệm giải trình, và nhiều cải cách khác. Nền kinh tế Việt Nam đã chuyển mình sang các thể chế dựa vào thị trường nhiều hơn, tuy một số di sản vẫn còn tồn tại, chẳng hạn vẫn có sự hiện diện lớn của Nhà nước ở một số lĩnh vực. Mặc dù thể chế của Việt Nam dẫn đến đầu tư về hạ tầng cơ bản và cải thiện về vốn nhân lực, nhưng cũng bộc lộ những dấu hiệu ỳ trệ của thể chế, làm giảm hiệu quả trong việc tạo nền tảng để tăng trưởng trong tương lai.
Báo cáo đánh giá, nhiều vấn đề cấp bách nhất của Việt Nam có bản chất là thể chế. Mặc dù đã có những làn sóng cải cách, doanh nghiệp ở Việt Nam vẫn tiếp tục phàn nàn về gánh nặng thủ tục hành chính tiền kiểm. Các quy trình đầu tư công có trật tự hơn so với trước đây nhưng lại gây chậm trễ, cứng nhắc, khó điều chỉnh khi hoàn cảnh thay đổi. Phân cấp tạo điều kiện cho các tỉnh thành có nhiều quyền kiểm soát hơn đối với chi tiêu công của họ, nhưng cũng có thể dẫn đến cạnh tranh lãng phí giữa các tỉnh thành, hoặc dẫn đến việc không cung cấp đầy đủ một số hạ tầng nhưng lại cung cấp quá nhiều những hạ tầng khác.
Những nỗ lực đáng kể nhằm cải thiện quy trình xây dựng pháp luật đã đem lại một số kết quả tích cực nhưng quy trình đó vẫn chậm và chưa được thực hiện đầy đủ. Những nỗ lực giảm tham nhũng, là vấn đề nổi cộm lâu nay, đã thành nếp và tạo chuyển đổi về nhận thức, nhưng cũng khiến cho nhiều người có thẩm quyền trở nên ngần ngại khi phải ra quyết định.
WB đánh giá, Việt Nam cần thực hiện thêm một Đổi mới nữa, một "cú huých lớn" về thể chế để tạo nền tảng cho vai trò của Nhà nước tập trung vào thiết lập quy tắc và cung cấp hàng hóa công cộng nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp phát triển. Động lực của cú huých lớn đó đã có sẵn - điều cần làm là duy trì động lực đó và tăng cường chiều sâu cải cách để đạt tốc độ tăng trưởng đủ cao nhằm giúp Việt Nam đạt được tham vọng của mình.
Để các thể chế có thể giảm chi phí giao dịch cho các doanh nghiệp
Theo WB, các thể chế của Việt Nam cần thích ứng với vai trò ngày càng lớn mạnh hơn của các doanh nghiệp khu vực tư nhân trong nền kinh tế. Trong 20 năm qua, tỷ trọng tài sản cố định của quốc gia nằm trong tay các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) đã giảm từ 51% xuống còn 14%, tạo không gian để tỷ trọng tài sản cố định của khu vực ngoài quốc doanh ở Việt Nam tăng gấp ba lần, từ 20% lên 61%. Doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp đầu tư nước ngoài đã lớn mạnh và đóng góp đáng kể về tài sản đầu tư của quốc gia, giúp tạo ra tăng trưởng ngoạn mục trong hai thập kỷ qua của quốc gia. Các doanh nghiệp đó cũng đảm nhiệm phần lớn nhiệm vụ cung cấp tài chính cho hoạt động của Chính phủ. Thu ngân sách từ khu vực DNNN cao gấp ba lần so với thu ngân sách từ khu vực ngoài quốc doanh trong năm 2005, nhưng chỉ còn bằng một nửa so với thu từ khu vực ngoài quốc doanh vào năm 2023.
Báo cáo đánh giá, các thể chế tạo lập thị trường, chẳng hạn xác lập quyền sở hữu và thực thi hiệu lực hợp đồng, đã và đang được phát triển trong nhiều thập kỷ; và mặc dù vẫn còn những thách thức, điển hình như trong quản lý đất đai, nhưng về cơ bản các thể chế hiện hành không đặt ra các rào cản đối với hoạt động của thị trường. Tương tự, các thể chế ổn định thị trường, như các thể chế về chính sách tiền tệ và tài khóa, về cơ bản đã đem lại ổn định kinh tế vĩ mô. Tăng cường các thể chế đó, tạo sự độc lập và xây dựng năng lực - vẫn tiếp tục quan trọng – bởi vì các quốc gia ở tất cả các trình độ phát triển đều có thể phải đối mặt với bất ổn định kinh tế vĩ mô.
Các thể chế hợp pháp hóa thị trường, như hệ thống đảm bảo an sinh xã hội vững chắc nhằm đảm bảo một số nhóm dân cư không bị tụt lại phía sau trong khi nền kinh tế ngày càng phụ thuộc các nguyên tắc thị trường, mặc dù đã được hình thành, nhưng cần củng cố để đảm bảo tính bền vững. Các thể chế bổ sung thị trường giúp cung cấp những gì mà khu vực tư nhân nhìn chung không thể cung cấp: đó là hàng hóa công cộng, như hạ tầng cho các dịch vụ của chính phủ chẳng hạn như giao thông, giáo dục và y tế. Các thể chế điều tiết thị trường nhằm xử lý các mục tiêu chính sách như kiểm soát tác động ngoại ứng.
Để tiếp tục hỗ trợ tăng trưởng, báo cáo cho rằng, Nhà nước cần làm tốt hơn việc thiết lập quy tắc - môi trường quy phạm pháp luật - và cung cấp hàng hóa công cộng, thay vì gây ảnh hưởng đến các quyết định kinh tế. Đầu tư công bị sa lầy trong các quy trình và phân công nhiệm vụ phức tạp, với thời gian chuẩn bị kéo dài, chất lượng chuẩn bị thấp và thủ tục rườm rà khi phải xử lý điều chỉnh dự án. Rất nhiều các hệ thống quy định đang tập trung vào thủ tục hành chính mang tính tiền kiểm - cơ sở dữ liệu quốc gia về thủ tục hành chính có đến trên 5.000 thủ tục về cấp phép kinh doanh, gây cản trở sự phát triển của doanh nghiệp…
Bở vậy, Việt Nam cần nâng cao hiệu quả đầu tư công cả về quy mô và chất lượng, từ khâu lựa chọn dự án, triển khai đến giám sát thực hiện. Việc hoàn thiện khung pháp lý và quy định cũng sẽ giúp môi trường kinh doanh minh bạch, ổn định và dễ dự đoán hơn. Quản trị địa phương cũng cần được nâng cao thông qua việc trao quyền tự chủ, tăng trách nhiệm giải trình và phối hợp tốt hơn giữa các tỉnh, thành.
Đặc biệt, Việt Nam cần xây dựng một bộ máy công vụ hiệu quả và có trách nhiệm giải trình – với quy mô hợp lý, chế độ đãi ngộ tốt hơn, và được hậu thuẫn bởi các thể chế bảo đảm quy trình tố tụng hợp pháp, tính minh bạch và cơ chế giám sát độc lập. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, các quốc gia vượt qua bẫy thu nhập trung bình và vươn lên vị thế thu nhập cao đều nhờ liên tục cải thiện chất lượng thể chế.
Anh Mai (Vietnam Business Forum)
từ ngày 18 – 19/12/2025
VCCI