09:08:43 | 12/6/2025
Việt Nam là một trong những quốc gia có mức khí thải carbon trên đầu người tăng nhanh nhất thế giới trong ba thập kỷ qua. Để đạt mục tiêu phát thải ròng bằng 0, Việt Nam phải tìm cách giảm phát thải, đồng thời đảm bảo năng lượng vẫn nằm trong khả năng chi trả và các lĩnh vực công nghiệp vẫn giữ được năng lực cạnh tranh.
Mặc dù đóng góp về khí thải hiệu ứng nhà kính toàn cầu của Việt Nam hiện ở mức 0,8% (355 triệu tấn khí thải CO2 trong năm 2020), nhưng từ năm 1990 đến 2021, lượng khí thải CO2 đã tăng nhanh hơn tăng trưởng GDP xấp xỉ ba lần.

Đặt nền móng cho tương lai xanh
Mục tiêu của Việt Nam trở thành nền kinh tế thu nhập cao vào năm 2045 gắn liền với khả năng đạt được lộ trình phát triển bền vững và đảm bảo khả năng chống chịu. Theo một báo cáo về tăng trưởng xanh hơn của WB công bố gần đây, mặc dù cần đạt tăng trưởng bình quân hàng năm ở mức 6 - 6,5% trong hai thập kỷ tới để đạt mục tiêu trên, nhưng Việt Nam có nguy cơ cao với rủi ro biến đổi khí hậu. Các đợt nắng nóng, bão, mực nước biển dâng cao đe dọa những cánh đồng, các nhà máy và đô thị - vốn là động lực tăng trưởng, và các công trình cơ sở hạ tầng kết nối người dân và các thị trường. Cơn bão Yagi gần đây là một minh chứng cho thấy điều này không phải là những nguy cơ đe dọa trong tương lai mà đã trở thành hiện thực. Dự báo cho thấy nếu không có các hành động thích ứng, tác động của biến đổi khí hậu có thể ảnh hưởng đến khả năng Việt Nam trở thành quốc gia thu nhập cao vào giữa thế kỷ này.
Bên cạnh đó, Việt Nam là một trong những nền kinh tế phát thải khí nhà kính cao nhất ở khu vực Đông Á, với 1,1 kg khí thải CO2 trên mỗi đô-la GDP (so với 0,7 kg và 0,4 kg lần lượt của Trung Quốc và Philipines), còn hàm lượng khí thải CO2 trong hàng xuất khẩu chiếm 36% tổng lượng khí thải CO2, thuộc dạng cao nhất trong khu vực.
Chính phủ đã bắt đầu đặt nền móng cho một tương lai xanh hơn và có khả năng chống chịu hơn như thành lập Hội đồng điều phối Vùng Đồng bằng Sông Cửu Long, tập hợp chính quyền, các cộng đồng địa phương và khu vực tư nhân để hài hòa đầu tư và hành động nhằm xử lý rủi ro khí hậu trên khắp vùng đồng bằng. Chính phủ cũng đã ban hành quy hoạch sử dụng bền vững tài nguyên ven biển để chuyển đổi các địa bàn ven biển thành các trung tâm văn hóa, cơ hội kinh tế và bền vững phát triển thịnh vượng.
Về giảm nhẹ, Việt Nam đã đẩy nhanh chuyển đổi năng lượng. Từ năm 2019 đến năm 2023, công suất điện mặt trời lắp đặt của quốc gia đã tăng mạnh từ 4,5GW lên trên 17GW, nhờ các chính sách ưu đãi và đầu tư tư nhân. Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia lần thứ tám (QHĐ8) đặt mục tiêu 73GW điện mặt trời vào năm 2030, tăng trên năm lần so với mục tiêu 12,8GW trước đó, còn mục tiêu về điện gió tăng gần gấp đôi từ 21 GW lên 38 GW. Đồng thời, Việt Nam đang đẩy nhanh chuẩn bị hệ thống giao dịch phát thải (ETS), với các chương trình thí điểm dự kiến triển khai từ năm 2025 và triển khai đầy đủ dự kiến vào năm 2028.
Đáng chú ý, mặc dù mô hình tăng trưởng kinh tế của quốc gia vẫn phát thải các-bon ở mức cao, nhưng khu vực tư nhân của Việt Nam đã bắt đầu tận dụng các cơ hội tăng trưởng xanh. Trong thập kỷ qua, các hoạt động kinh tế xanh đã tăng trưởng nhanh chóng ở Việt Nam và đến nay đã có đóng góp quan trọng cho tăng trưởng GDP. Chính phủ ước tính các hoạt động kinh tế xanh tạo ra 6,7 tỷ USD trong năm 2020, tương đương 2% tổng GDP, với tốc độ tăng trưởng hàng năm 10 - 13% trong các năm 2018 – 2020; tạo ra trên 400.000 việc làm, trên một nửa số đó nhờ vào sản xuất thiết bị, máy móc và phụ tùng phục vụ sản xuất năng lượng sạch và tái tạo. Ngoài ra, Việt Nam là quốc gia đứng thứ 8 trên toàn cầu và đứng đầu Đông Á - Thái Bình Dương về tỷ lệ đầu tư năng lượng sạch qua biên giới so với GDP trong giai đoạn 2016 – 2020.
Tuy vậy, điều đáng nói là Việt Nam đã có giai đoạn công suất năng lượng xanh trong nước tăng mạnh trong điều kiện giá cả giảm mạnh, nhưng phải đối mặt với những khó khăn về thể chế trong việc phát triển lĩnh vực này. Tỷ lệ công suất điện sản xuất bằng năng lượng gió và mặt trời tăng từ mức gần như bằng không trong năm 2018 lên đến 13% sản lượng điện năm vì chi phí điện quy dẫn (LCOE) của điện mặt trời giảm mạnh sau năm 2019, khi quốc gia ban hành biểu giá điện đầu vào ưu đãi, đẩy mạnh phát triển điện mặt trời. Mặc dù chưa từng có quốc gia nào trên thế giới bổ sung điện tái tạo với tỷ lệ so với tổng công suất lắp đặt cao trong khoảng thời gian ngắn, nhưng lĩnh vực này vẫn đang gặp khó khăn với các vấn đề về thể chế và chính sách liên quan đến chuyển đổi sang công suất sản xuất điện mới này, khiến cho công suất tăng thêm vẫn chủ yếu để chờ.
Lồng ghép các chính sách của quốc gia với các cơ chế ưu đãi
Trong thời gian tới, Việt Nam có vị trí địa lý thuận lợi để khu vực tư nhân khai thác nhu cầu gia tăng trên toàn cầu về các công nghệ, hàng hóa và dịch vụ xanh, với tiềm năng lớn cũng như với năng lượng xanh chi phí thấp. Phân tích của WB cho thấy, Việt Nam là quốc gia có vị trí ưu việt ở Đông Nam Á để phát triển năng lượng gió và mặt trời, là hình thức mới về lợi thế cạnh tranh, ước tính lên đến 1.000 GW mỗi năm, chủ yếu nhờ tiềm năng kỹ thuật lớn về gió. Ngoài ra, Việt Nam có chi phí điện quy dẫn (LCOE) của điện gió thấp nhất trong ASEAN và thuộc dạng thấp nhất đối với điện mặt trời. Tương tự, dự án điện gió ngoài khơi kết hợp với pin dự kiến sẽ trở nên rẻ hơn so với nhà máy điện than và điện khí mới trong nửa cuối của thập kỷ 2030. Điều này đem lại cơ hội đầu tư cho cộng đồng doanh nghiệp và các cấp có thẩm quyền ở Việt Nam nhằm thu hút các doanh nghiệm tìm kiếm các hình thức sản xuất thân thiện hơn với môi trường, như các thành viên của Nhóm Khí hậu RE100.
Đặc biệt, khu vực tư nhân là trọng tâm trong các nỗ lực của Việt Nam nhằm giảm phát thải và chuyển dịch sang nền kinh tế giảm thải các-bon. Huy động vốn tư nhân là rất cần thiết để đáp ứng nhu cầu đầu tư, cụ thể trong các lĩnh vực các doanh nghiệp tư nhân có thể thúc đẩy nâng cao hiệu suất và đổi mới sáng tạo hiệu quả. Đầu tư tư nhân đến nay đã góp phần đáng kể cho công suất năng lượng tái tạo của quốc gia; chẳng hạn, lĩnh vực điện mặt trời của Việt Nam tăng trưởng từ mức gần bằng không lên 17GW hiện nay, chủ yếu nhờ sự tham gia của khu vực tư nhân. Ngoài năng lượng tái tạo, khu vực tư nhân còn có vai trò thúc đẩy tiết kiệm năng lượng và giảm phát thải trong nhiều ngành, lĩnh vực.
Với cam kết chuyển đổi sang phát thải ròng bằng không cả trong nước và trên quốc tế, WB cho rằng, Việt Nam cần áp dụng cách tiếp cận toàn diện, lồng ghép các chính sách của quốc gia với các cơ chế ưu đãi, quy định và tiêu chuẩn trong các lĩnh vực phát thải chính, như năng lượng và giao thông vận tải. Các chính sách hiện nay chủ yếu dựa vào các cơ chế quy hoạch và kế hoạch, như các chỉ tiêu về năng lượng tái tạo trong Quy hoạch phát triển điện lực. Gói chính sách nếu được chuyển đổi sang cách tiếp cận theo cơ chế thị trường nhiều hơn có thể nâng cao hiệu suất và giảm chi phí giảm thải qua khai thác điểm mạnh của các cơ chế thị trường. Các công cụ thị trường, như qua áp đặt phí cho khí thải các-bon, sẽ làm dịch chuyển giá cả tương quan, và điều đó sẽ đẩy nhanh áp dụng các công nghệ giảm thải các-bon, khiến cho chúng trở nên cạnh tranh hơn. Những công cụ đó bao gồm triển khai thí điểm hệ thống giao dịch phát thải (ETS) dự kiến vào năm 2025, và triển khai đầy đủ dự kiến vào năm 2028. Việt Nam cũng đang tham gia các thị trường các-bon tự nguyện, song song với các giao dịch theo Điều 6 của Thỏa thuận Pa-ri về chứng nhận và giao dịch tín chỉ carbon. Thuế carbon nếu được ban hành sẽ bổ sung cho hệ thống giao dịch phát thải (ETS), qua đó càng hỗ trợ cho mục tiêu tham vọng của Việt Nam về phát thải ròng bằng không vào năm 2050.
Đặc biệt, việc đẩy mạnh khả năng tiếp cận các nguồn tài chính xanh và giảm các rào cản quy định sẽ tạo thuận lợi để các doanh nghiệp thực hiện đầu tư cần thực hiện vào hạ tầng và công nghệ sạch.
Quỳnh Anh (Vietnam Business Forum)
từ ngày 18 – 19/12/2025
VCCI
từ 11/11/2025 đến 30/11/2025
VCCI