Thuế tối thiểu toàn cầu và bài toán mới trong thu hút FDI của Việt Nam

09:33:02 | 21/10/2025

Nằm trong khu vực kinh tế phát triển năng động, Việt Nam cho đến nay vẫn tiếp tục là nền kinh tế có sức thu hút FDI ở mức cao và có xu hướng tăng lên. Tuy nhiên, việc áp dụng thuế thu nhập doanh nghiệp tối thiểu toàn cầu khiến việc ưu đãi thuế không còn là điểm mạnh để thu hút FDI nữa mà cần các chính sách phi thuế hợp lý khác.

Thuế thu nhập tổi thiểu toàn cầu ảnh hưởng đến thu hút FDI

Theo PGS TS Bùi Tất Thắng, Nguyên Viện trưởng Viện Chiến lược phát triển, kinh tế thế giới đang chịu tác động của những nhân tố mới, trong đó, việc áp dụng thuế thu nhập doanh nghiệp tối thiểu toàn cầu là một trong những nhân tố ảnh hưởng lớn đến dòng vốn FDI trong thời kỳ sắp tới.

Thuế thu nhập doanh nghiệp tối thiểu toàn cầu (gọi tắt là Thuế tối thiểu toàn cầu) là một trong hai trụ cột chính của Chương trình hành động chống xói mòn cơ sở thuế và dịch chuyển lợi nhuận (Base erosion and profit shifting - BEPS) do Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) khởi xướng từ năm 2013. Mức thuế tối thiểu toàn cầu được quy định là 15%, áp dụng đối với các công ty đa quốc gia có tổng doanh thu hợp nhất toàn cầu từ 750 triệu EUR (800 triệu USD) trong ít nhất hai năm của bốn năm liền kề gần nhất.

Cơ sở của đề xuất về Thuế tối thiểu toàn cầu chủ yếu xuất phát từ hiện tượng các công ty đa quốc gia có doanh thu cao, thường ở những nước công nghiệp phát triển, đầu tư vào những nước có mức thuế thu nhập doanh nghiệp thấp để đạt doanh lợi cao nhờ tối thiểu hóa mức thuế phải nộp. Vì vậy, xuất hiện xu hướng cạnh tranh không lành mạnh và bất bình đẳng về thu nhập ngày càng tăng lên. Bởi thế, việc áp dụng mức thuế tối thiểu này có mục tiêu chung là đảm bảo duy trì môi trường cạnh tranh lành mạnh trên quy mô toàn cầu nhờ tính minh bạch cao hơn và hạn chế sự gia tăng bất bình đẳng về thu nhập. Thêm vào đó, những quốc gia công nghiệp phát triển, nơi có các công ty đa quốc gia lớn đầu tư ra nước ngoài mất đi một khoản thu ngân sách so với việc các công ty này đầu tư ngay ở trong nước. Hơn nữa, gần đây, khi mà cuộc chạy đua vào những lĩnh vực khoa học công nghệ cao, mang tính chiến lược như công nghệ bán dẫn, AI… trở nên rất quyết liệt thì “giải pháp” Thuế tối thiểu toàn cầu mới được đem ra áp dụng cho dù đây là một loại thuế đã được nghiên cứu và đề xuất từ hơn 10 năm trước. Đây cũng là lý do giải thích vì sao Chương trình hành động chống xói mòn cơ sở thuế và dịch chuyển lợi nhuận (BEPS) đưa ra hai trụ cột: một là, phân bổ thuế đối với hoạt động kinh doanh dựa trên kỹ thuật số; và hai là, đặt ra mức thuế doanh nghiệp tối thiểu toàn cầu 15% đối với các công ty đa quốc gia. Nhiều nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam đã tuyên bố áp dụng Thuế tối thiểu toàn cầu từ năm 2024.

Ở Việt Nam, theo thông tin từ Cục Thuế (Bộ Tài chính), có hơn 1.000 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam có công ty mẹ thuộc đối tượng áp dụng thuế tối thiểu toàn cầu, trong đó có khoảng 120 doanh nghiệp lớn chịu ảnh hưởng nếu áp dụng từ năm 2024 với mức thu thêm phần thuế chênh lệch khoảng 14.600 tỷ đồng. Điều đáng nói là, số tiền thuế này nếu Việt Nam không thu thì các nước khác cũng thu. Vì vậy, kể từ khi Việt Nam áp dụng thuế tối thiểu toàn cầu (2024), các nhà đầu tư nước ngoài không còn thấy sự hấp dẫn về ưu đãi thuế nữa.

Trong khi đó, Việt Nam vẫn có nhu cầu tiếp tục tăng cường thu hút FDI, đặc biệt là với các lĩnh vực ưu tiên: công nghệ cao, công nghệ sạch…, nên một khi công cụ “ưu đãi thuế” không còn mấy tác dụng thì phải tìm những công cụ khác ngoài thuế, miễn sao đảm bảo môi trường kinh doanh thuận lợi hơn, hấp dẫn hơn (tính bằng lợi ích mà các nhà đầu tư cuối cùng thu được) so với các đối tác khác, kể cả với các nước xuất xứ của các công ty đa quốc gia. Như vậy, việc thu thêm phần thuế thu nhập về bản chất kinh tế chỉ là “thao tác kỹ thuật” chứ không phải tăng được nguồn thu ngân sách, bởi lẽ nước chủ nhà lại phải tìm các biện pháp hỗ trợ khác để khuyến khích các nhà đầu tư, mà nếu quy ra thành tiền thì về cơ bản cũng phải tương đương như số thuế chênh lệch mà các công ty đa quốc gia đã và sẽ đầu tư.

Tìm cơ chế hỗ trợ thay thế ưu đãi thuế để thu hút FDI

Theo số liệu của Cục Thống kê- Bộ Tài chính, giai đoạn từ 2020 - 2024, dù mức tăng trưởng có khác nhau, nhưng vốn FDI luôn chiếm khoảng 16,2% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, hàng năm sản xuất ra khoảng 20,2% GDP và chiếm khoảng 73% tổng giá trị xuất khẩu của nền kinh tế VN.

Mặc dù bức tranh FDI toàn cầu có xu hướng suy giảm, trong đó một số khu vực suy giảm rất mạnh, nhưng từ sau thời kỳ Covid-19, lượng vốn FDI vào Việt Nam vẫn đang tiếp tục tăng lên. Về nguyên tắc, muốn tiếp tục duy trì được sức hấp dẫn đối với FDI, theo PGS TS Bùi Tất Thắng, Việt Nam phải đảm bảo giữ được các ưu đãi tổng thể mà nếu quy ra tiền, phải không thấp hơn mức ưu đãi đã được hưởng so với mức thuế tối thiểu toàn cầu (15%). Điều này có nghĩa là, khi công cụ giảm thuế để tăng sức cạnh tranh thu hút FDI không còn tác dụng nữa thì phải tìm kiếm những công cụ khác. Và phần thuế thu được bổ sung từ việc đánh thuế theo mức thuế tối thiểu toàn cầu lại dùng để chi cho các khoản ưu đãi khác để đủ sức hấp dẫn đối với FDI.

PGS TS Bùi Tất Thắng cho rằng, những chính sách ưu đãi ngoài thuế có thể bao gồm: Tạo thuận lợi đầu tư bằng cách tiếp tục cải cách các thủ tục hành chính để  cấp phép nhanh chóng, giảm chi phí ở khâu chuẩn bị đầu tư. Đây là giải pháp đã được đề ra từ rất lâu và cũng đã triển khai thực hiện đạt nhiều kết quả, như áp dụng cơ chế một cửa, quy định thời hạn xử lý cấp phép…, nhưng các nhà đầu tư vẫn còn những kiến nghị cần tiếp tục cải cách để cải thiện hơn nữa.

 “Biện pháp hữu hiệu nhất lúc này là đẩy nhanh hơn việc sử dụng công nghệ thông tin để có đầy đủ hơn những thông tin liên quan cần thiết và minh bạch hơn cả đối với các nhà đầu tư cũng như môi trường đầu tư của Việt Nam. Việc làm này có mục tiêu rõ ràng là có một môi trường đầu tư ổn định và minh bạch về chính sách nhằm có thể dự báo chi phí đầu tư, tránh rủi ro pháp lý và chi phí tuân thủ”, PGS TS Bùi Tất Thắng chia sẻ.

Bên cạnh đó, có thể áp dụng ngay các cơ chế hỗ trợ thay thế ưu đãi thu như hỗ trợ tiếp cận đất đai, mặt bằng kinh doanh sẵn có để sẵn sàng đón các nhà đầu tư. Để có quỹ đất hỗ trợ cho các nhà đầu tư, cần triển khai ngay việc tạo quỹ đất phát triển các khu công nghiệp theo quy hoạch đã được phê duyệt. Đồng thời, cần có sự hỗ trợ về hạ tầng, lâu nay, tại các khu công nghiệp, phàm là hệ thống hạ tầng kỹ thuật trong khu là do nhà đầu tư kinh doanh khu công nghiệp chịu trách nhiệm, hạ tầng ngoài khu do chính quyền các địa phương đầu tư. Trước tình hình mới, nên xem xét sửa đổi theo hướng một số lĩnh vực xây dựng và vận hành hoạt động một số lĩnh vực hạ tầng chuyển cho chính quyền đảm nhận, vừa giảm cả chi phí  thời gian làm thủ tục, vừa giảm chi phí xây dựng, vận hành, trong khi chính quyền lại kiểm soát tốt hơn chất lượng dịch vụ.

Đặc biệt, cần có sự hỗ trợ xây dựng nhà ở xã hội trong và gần các khu công nghiệp để giảm bớt chi phí cho các nhà đầu tư sản xuất; giải quyết vấn đề visa, giấy phép lao động theo hướng thuận lợi nhất cho các chuyên gia nước ngoài làm việc trong các dự án có công nghệ cao; hỗ trợ đào tạo nhân lực...

Theo PGS TS Bùi Tất Thắng, nguồn lực chủ yếu để thực hiện các hoạt động hỗ trợ phi thuế này là từ Quỹ Hỗ trợ đầu tư được hình thành theo Nghị định số 182/2024/NĐ-CP. Vấn đề quan trọng là tổ chức thực hiện có hiệu quả nhất nguồn lực tài chính của Quỹ này để nhanh chóng thay thế những chính sách ưu đãi về thuế khi áp dụng thuế tối thiểu toàn cầu, tăng khả năng thu hút dòng vốn và giữ chân các nhà đầu tư FDI.

Quỳnh Chi (Vietnam Business Forum)