Phát huy hiệu quả du lịch giúp xóa đói giảm nghèo

16:10:27 | 31/5/2012

Theo kết quả nghiên cứu của Hội đồng du lịch và Lữ hành Quốc tế (WTTC), ước tính tới năm 2015 ở Việt Nam, du lịch sẽ là ngành tuyển lực lượng lao động lớn nhất, chiếm khoảng 15% lực lượng lao động toàn quốc. Nguồn nhân lực du lịch sẽ có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, đóng góp trong việc xóa đói giảm nghèo.

Phóng viên Tạp chí Vietnam Business Forum đã có cuộc Phỏng vấn ông Phạm Tiến Dũng, Giám đốc Trung tâm Tổ chức Hội nghị & Du lịch chất lượng cao quốc tế (Golden Tour & Convention), Giám đốc Trung tâm Xúc tiến thương mại và Hợp tác quốc tế ICT (ICT Promotion Agency) về những giải pháp nhân rộng mô hình du lịch xóa đói giảm nghèo nhằm nâng cao hiệu quả của du lịch trong phát triển kinh tế xã hội. Thu Huyền thực hiện.

Thống kê trong số 50 nước nghèo trên thế giới thì du lịch lại là lĩnh vực thu hút nhiều ngoại tệ nhất. Các nước đang phát triển rất có lợi thế cạnh tranh nhờ có tài sản văn hóa truyền thống đặc thù, tài sản này lại đang gắn kết với người nghèo, chính vì vậy tạo điều kiện để người nghèo thu nhập qua hoạt động du lịch là điều hoàn toàn hợp lý.

Tại sao cần phát triển du lịch kết hợp xóa đói giảm nghèo tại Việt Nam, thưa ông?

Không chỉ là một hoạt động kinh tế - xã hội thuần túy, du lịch còn là một hoạt động văn hóa, trở thành một công cụ quan trọng trong việc nâng cao mức sống, giảm nghèo, từng bước thu hẹp khoảng cách giữa người giàu và người nghèo. Cứ mỗi 2,4 giây ngành du lịch lại tạo một công ăn việc làm mới trong khi đồng ở nông thôn Việt Nam hiện đang chiếm gần 80% dân số đất nước (thu hút hơn 500.000 lao động trực tiếp và hơn 1 triệu lao động gián tiếp). Du lịch phát triển thì người dân địa phương có thể bán nhiều sản phẩm mà họ sản xuất trực tiếp (xuất khẩu tại chỗ), cơ hội mua bán tăng lên nhiều lần; góp phần tạo công ăn việc làm cho cư dân địa phương. Phát triển cơ sở hạ tầng du lịch còn đem lại lợi ích cho cộng đồng nghèo thông qua hệ thống giao thông, liên lạc viễn thông, điện, nước sinh họat, dịch vụ y tế…

Trong suốt những năm qua, nhờ tiến trình đổi mới và những chính sách mở cửa hợp lý, VN đã tiến một bước dài trong việc thực hiện chiến lược trên. Nếu năm 1990, Việt Nam chỉ đón 250 ngàn khách quốc tế, thì đến năm 2000 con số này là 2 triệu và năm 2007 sẽ là trên 4 triệu. Lượng khách du lịch trong nước tăng từ 11,2 triệu người năm 2000 lên 15,5 triệu lượt năm 2005 và năm 2007 xấp xỉ 20 triệu lượt. Sau giai đoạn khó khăn năm 2009, du lịch phục hồi ở mức độ khá nhanh. Từ 922 triệu lượt khách quốc tế năm 2008 sẽ tăng lên 1,6 tỉ lượt người năm 2020. Dự kiến doanh thu du lịch thế giới lớn gấp đôi vào năm 2020 so với năm 1995. Chính điều này tạo ra nhiều cơ hội việc làm, góp phần thay đổi cơ cấu kinh tế của nhiều địa phương, cũng là góp phần xóa đói giảm nghèo.

Theo đánh giá của nhiều chuyên gia, lao động trong ngành du lịch có thu nhập tương đối cao và tạo ra năng suất lao động xã hội tương đối lớn. Chỉ thống kê năng suất lao động xã hội của ngành khách sạn và nhà hàng đứng thứ 6/18 ngành của nền kinh tế quốc dân và tăng gấp 2,36 lần so với năng suất lao động bình quân của xã hội. Điều này khẳng định sự phát triển du lịch đã góp phần không nhỏ vào việc giải quyết các vấn đề kinh tế - xã hội của đất nước, tạo ra nhiều việc làm cho xã hội và có năng suất lao động xã hội cao.

Ở Việt Nam, sức ép và cơ hội để có những sản phẩm và điểm du lịch mới đem lại khả năng để ngành du lịch mở rộng phát triển đến nhiều vùng khác nhau của cả nước. Cụ thể, trong những năm gần đây, du lịch đặc biệt phát triển tại những vùng ven biển và một số đảo. Quá trình phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế xã hội nói chung của Việt Nam và sự chuyển đổi từ nền kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế theo định hướng dịch vụ mang lại nhiều cơ hội hỗ trợ người dân nghèo để họ kiếm được việc làm với thu nhập cao hơn trong ngành du lịch.

Ngành du lịch đang mở rộng phát triển về những vùng có tỷ lệ dân nghèo cao, trình độ kỹ năng nghề thấp, cơ hội đào tạo ít, do đó vấn đề thiếu hụt nhân công có trình độ nghiệp vụ trở thành một thách thức lớn. Rất nhiều vị trí công việc trong ngành du lịch có thể dễ dàng được người dân địa phương đảm nhiệm nếu họ có cơ hội được đào tạo nghề. Tình trạng này phản ánh sự cần thiết và cơ hội quan trọng đối với việc phát triển nguồn nhân lực tại địa phương, tạo cơ hội giúp người nghèo được hưởng lợi thông qua việc tổ chức các khóa đào tạo nghề phù hợp.

Ông có thể cho biết một số dự án điển hình cho công tác xóa đói giảm nghèo tại địa phương?

Ở Việt Nam chương trình phát triển du lịch bền vững cho người nghèo đang được triển khai tại một số tỉnh trong cả nước đã đạt những kết quả đáng ghi nhận, tạo cơ hội, góp phần xoá giảm nghèo cho cộng đồng người nghèo tại các khu du lịch. Các dự án Du lịch bền vững vì người nghèo chủ yếu được thành lập ở vùng nông thôn, miền núi, nơi thu nhập người dân còn thấp và điều kiện sinh hoạt còn hạn chế. Giúp người nghèo xoá đói giảm nghèo, người dân tự biết lập kế hoạch ra quyết định, hoạch định chiến lược trong tương lai, người dân ở những điểm du lịch đó biết chú trọng vấn đề về giới. Giúp người nghèo có kỹ năng sản xuất các nghề thủ công mỹ nghệ, khôi phục và phát triển sản phẩm phục vụ du lịch, họ cũng được tham gia vào hoạt động du lịch tạo lợi nhuận, như tham gia các chương trình văn nghệ, giao lưu… nấu nướng, dệt thổ cẩm, bán hàng cho khách.

Hoặc dự án “Phát triển du lịch sinh thái tại khu bảo tồn Khe Rỗ xã An Lạc” năm 2010 do Tỉnh tự trị TRENTO và Tổ chức GTV của Ytalia đồng tài trợ với tổng số vốn đầu tư ban đầu gần 200 ngàn ero, đã giúp người dân 4 thôn thuộc xã An Lạc đó là thộ Nà Ó, thôn Biểng, thôn Đội Mới, thôn Đồng Bây với tổng số 103 hộ, với mục tiêu khai thác các tài nguyên sẵn có, xây dựng các sản phẩm du lịch, các dịch vụ bán hàng lưu niệm, phát triển du lịch xóa đói giảm nghèo.

Tuy nhiên, du lịch xóa đói giảm nghèo thành công đòi hỏi những mô hình chuẩn khác nhau, điều này đòi hỏi rất nhiều thời gian, công sức cũng như tài chính, thưa ông?

Mỗi địa phương có một đặc thù về địa lý, tự nhiên cũng như về nguồn lực con người, tài nguyên khác nhau, nên chắc chắn khi đưa du lịch vào phát triển kinh tế địa phương, giúp xóa đói giảm nghèo, cần phải nghiên cứu một mô hình phụ hợp có thể phát huy hiệu quả công tác du lịch. Để làm được điều này, công việc đầu tiên phải triển khia trước hết là tổ chức các Hội nghị, hội thảo mời các cơ quan chức năng, các ngành liên quan như Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Trung tâm, Viện Nghiên cứu Phát triển Du lịch và một số công ty du lịch trong và ngoài tỉnh… để lấy ý kiến tham gia đóng góp, xây dựng Đề án phát triển mô hình du lịch phù hợp với điều kiện của địa phương. Ngoài ra, cũng phải tổ chức đoàn khảo sát học tập mô hình du lịch cộng đồng tại một số tỉnh có mô hình du lịch cộng đồng phát triển, như tỉnh Hòa Bình, Tuyên Quang, Hà Giang. Bởi vậy, công tác nghiên cứu và tiến trình thực hiện phù hợp là rất cần thiết để có một mô hình du lịch giúp xóa đói giảm nghèo hiệu quả tại địa phương.

Vậy, để du lịch xóa đói giảm nghèo phát huy hiệu quả thiết thực của nó, cần những giải pháp gì, thưa ông?

Vượt qua nạn nghèo đói không phải là nhiệm vụ dễ dàng, không chỉ những người làm du lịch vào cuộc mà cần phải có sự gánh vác trách nhiệm của các quốc gia, các tổ chức và chính người dân. Việc phát triển du lịch cần phải xác định giảm nghèo là một mục tiêu quan trọng phải đạt được, nó đòi hỏi phải có kế hoạch can thiệp mang tính chiến lược và chuyên nghiệp. Vai trò quan trọng của chiến lược phát triển nguồn nhân lực để giảm nghèo thông qua hoạt động du lịch cần phải được phát triển hơn nữa và lồng ghép với các lĩnh vực quy hoạch, xây dựng chính sách. Cần nhắm vào đây để xóa đói giảm nghèo, tăng thu nhập cho cộng đồng cư dân, nhất là cộng đồng cư dân ở các nơi có di sản được UNESCO công nhận.

Ngoài ra, để phát triển bền vững, thu được những nguồn lợi to lớn và lâu dài từ du lịch đòi hỏi nguồn nhân lực phải được nâng cao chuyên môn, nghiệp vụ, hướng tới chuyên nghiệp hóa trong từng khâu. Cần phải thúc đẩy cơ hội cho người nghèo tiếp cận với các khóa đào tạo du lịch và thiết kế nội dung đào tạo phù hợp; xây dựng và phát triển các phương pháp phát triển nguồn nhân lực phù hợp với người nghèo, các vùng nông thôn và các điểm du lịch hiện nay; cung cấp đào tạo bổ trợ “kỹ năng sống” và phát triển nghề nghiệp; tìm kiếm đối tác và các tổ chức hỗ trợ, cơ quan hay chương trình phát triển. Việc bổ trợ “kỹ năng sống” được ông Douglas Hainsworth đưa ra ở đây bởi theo ông điều đó giúp họ quản lý hiệu quả thu nhập để tránh rơi vào tình trạng tái nghèo.

Hơn nữa cũng cần có các cơ chế hỗ trợ du lịch giảm nghèo trong đó người nghèo có thể được tạo việc làm tại doanh nghiệp du lịch hoặc cung cấp hàng hóa và dịch vụ cho doanh nghiệp hoặc bán sản phẩm hoặc dịch vụ trực tiếp cho du khách. Việc phát triển nguồn nhân lực có thể giúp cho người nghèo, thể hiện bằng việc phát triển kỹ năng nghề, đào tạo nghề tại chỗ hay thực tập; kỹ năng phát triển sản phẩm mới và nâng cấp chất lượng sản phẩm hiện có; đào tạo cách tiếp cận thị trường, nhận thức về du lịch, dịch vụ, thân thiện và kỹ năng bán hàng; các kỹ năng xây dựng và điều hành doanh nghiệp nhỏ.