Công ty TNHH Tân Thuận Phong: Thành công từ cái “Tâm” với nghề

11:42:35 | 2/7/2014

Nói đến Cty TNHH Tân Thuận Phong (Hải Phòng), nhiều người trong giới môi trường biết đến ông Bùi Văn Bình, vị giám đốc trẻ dám nghĩ dám làm. Là một trong những đơn vị tiên phong của Hải Phòng trong lĩnh vực xử lý rác thải, và cũng là một trong ba DN đầu tiên trên cả nước được cấp giấy phép hoạt động vận chuyển và xử lý chất thải nguy hại.

Ông Bùi Văn Bình – Giám đốc công ty TNHH Tân Thuận Phong
Tâm huyết

Với tâm huyết làm xanh sạch đẹp môi trường, ông Bùi Văn Bình - GĐ công ty TNHH Tân Thuận Phong đã quyết định đầu tư nghiên cứu xử lý rác thải, khi nhìn nhận ra rằng" ngành công nghiệp này đầu tư rất lớn, khấu hao lâu, nhưng sẽ phù hợp, nếu biết đón đầu và ứng dựng công nghệ để tận thu rác thành "vàng". Ngay từ khi thành lập (2007) Công ty đã xác định nghiên cứu chủ yếu tập trung vào việc tái chế rác thải trở thành vật hữu dụng, phục vụ sản xuất và cuộc sống. Công ty xác định hướng nghiên cứu chủ yếu tập trung vào việc tái chế rác thải trở thành vật hữu dụng, phục vụ sản xuất và cuộc sống. Tận dụng nguồn nguyên liệu đầu vào đang sẵn có, Công ty đã nhanh chóng tìm được hướng đi riêng, xây dựng sơ đồ, biện pháp kỹ thuật, phương pháp xử lý thành công rất nhiều loại chất thải khác nhau. Sau một thời gian ngắn đi vào hoạt động, Công ty đã chiếm lĩnh được thị trường, được đông đảo các DN trên điạ bàn và khu vực biết tới.

Cùng với các cộng sự của mình ông Bình đã tìm ra công nghệ chiết tách các kim loại như đồng, niken, crom... từ bùn thải công nghiệp, từ bản mạch điện tử và từ các NM sản xuất... Các chất thải sau quá trình chiết tách còn lại cung ứng cho các NM xi măng làm chất phụ gia. Không chỉ vậy, phương pháp chiết tách, tái chế hoá chất, chất thải, dầu thải... đều được Cty nghiên cứu ứng dụng theo công nghệ đơn giản, giá thành rẻ, nhưng vẫn đảm bảo môi trường. Bên cạnh dây chuyền tái chế, xử lý rác thải công nghiệp, Cty đã đầu tư hệ thống máy móc, thiết bị - để nguồn nguyên liệu rác thải này tiếp tục sản xuất nhiều loại muối vô cơ như CuSO4, MnSO4, ZnSO4. Đây là loại muối vô cơ bổ sung vi lượng khoáng chất rất cần thiết để sản xuất thức ăn gia súc và sử dụng trong nhiều ngành công nghiệp khác. Hiện, năng lực xử lý của Cty đã đạt mức 10 - 20 tấn rác thải công nghiệp/ngày. Việc nghiên cứu, thiết kế dây chuyền công nghệ xử lý rác thải công nghiệp phù hợp với điều kiện của các DN Việt Nam đang được Cty triển khai.

Sáng tạo                                 

Trao đổi với chúng tôi ông Bình tâm sự: ở Việt Nam qua nghiên cứu sơ bộ cho thấy khoảng 275.000 tấn chất thải công nghiệp nguy hại đã được phát sinh, trong đó 30% ở miền Bắc, 10% ở miền Trung và 60% ở miền Nam. Với tốc độ tăng trưởng như vậy thì tổng lượng chất thải này có thể đạt khoảng hơn 1 triệu tấn . Sự phát triển công nghiệp làm lượng phế liệu, các chất độc hại sẽ tăng, gây hậu quả nguy hại cho thiên nhiên và con người.

Từ thực tiễn trên cộng với sự đam mê về môi trường ông Bùi Văn Bình đã nghiên cứu thành công "công nghệ lò đốt và xử lý khói thải đốt chất thải công nghiệp - TTP4”. Hệ thống lò đốt rác thải công nghiệp nguy hại TTP-4/1 gồm 4 buồng đốt sơ cấp và 1 buồng đốt thứ cấp, được xây dựng trên cơ sở lựa chọn nhiệt độ và cấp đốt, tính toán các vấn đề hồi lưu. Khí thải lò được xử lý bằng phương pháp hấp thụ ướt. So với các loại lò đốt khác chỉ hoạt động theo cơ chế một buồng đốt nên hiệu suất không cao, công nghệ đốt này có ưu điểm mới nổi trội hơn là cùng một lúc có thể đốt được nhiều cửa, nhiều loại chất thải khác nhau, tận dụng tối đa năng lượng sinh ra, giảm thiểu khí lò. Ngoài ra, lò có thể vận hành liên tục và có thể tái sử dụng nước thải. Đặc biệt, do tận dụng được nguồn nhiên liệu rẻ từ dầu thải và than củi, nên lò đốt TTP-4/1 còn có ưu điểm là chi phí vận hành thấp. Với hệ thống 4 buồng đốt sơ cấp, 1 buồng đốt thứ cấp cùng với hệ thống tái sử dụng nhiệt dồng hành và xử lý khí thải, hệ thống buồng đốt TTP - 4/1 là giải pháp hữu hiệu cho việc xử lý chất thải công nghiệp nguy hại của nước ta hiện nay. Đặc biệt trong giai đoạn lượng chất thải công nghiệp nguy hại của nước ta ngày càng tăng nhanh, trong khi hệ thống xử lý lại thiếu rất nhiều và hoạt động không hiệu quả.

Duy Anh