11:46:30 | 14/7/2014
Theo quy hoạch tổng thể phát triển ngành Da-Giày đến năm 2020, tần nhìn 2025, đến năm 2020 mục tiêu của ngành Da-Giày Việt Nam là trở thành ngành công nghiệp xuất khẩu mũi nhọn của nền kinh tế, tạo thêm nhiều công ăn việc làm cho xã hội, nâng cao thu nhập cho người lao động và thực hiện tốt trách nhiệm đối với xã hội. Để nắm bắt cơ hội và đạt mục tiêu như đề ra, ngành da giày Việt Nam còn nhiều việc phải làm.
Ngành mũi nhọn và nhiều tiềm năng
Theo Bộ Công thương, vào những năm 1990, ngành da giày Việt Nam chủ yếu may mũi giày để xuất sang Liên Xô, với chất lượng không cao và chủng loại ít. Hiện ngành giày da Việt Nam đứng thứ tư trong số 8 thị trường xuất khẩu lớn nhất thế giới, chỉ sau Trung Quốc, Hồng Kông và Italia, nhưng 90 % sản phẩm của giày da Việt Nam là hàng gia công; với 812 doanh nghiệp đang hoạt động (hầu hết làm gia công ở tầng thứ 2, thứ 3, với trên 70% các doanh nghiệp xuất khẩu lớn là công ty liên doanh hoặc 100% vốn nước ngoài, phụ thuộc nhiều vào các đối tác về thiết bị kỹ thuật, công nghệ, thiết kế sản phẩm, nguồn cung cấp nguyên liệu thô, phụ liệu và thị trường ), thu hút trên 624.000 lao động trên cả nước, 75% là lao động nữ. Trong đó, các doanh nghiệp sản xuất giày dép chiếm tỷ trọng lớn (63,5%), kế đến là doanh nghiệp sản xuất cặp, túi, ví các loại (32%), số còn lại là các doanh nghiệp sản xuất da thuộc.
Trong giai đoạn 2010-2013, tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm của ngành Da-Giày-Túi xách đạt 10-15%.
.jpg)
Năm 2012, toàn ngành xuất khẩu được 8,764 tỷ USD chiếm 7,6% tổng kim ngạch của cả nước và chiếm 10,5% kim ngạch nhóm công nghiệp chế biến, trong đó kim ngạch xuất khẩu vào EU đạt 3,084 tỷ USD, chiếm 35% kim ngạch xuất khẩu toàn ngành. Tính riêng giày dép chiếm 2,650 tỷ USD chiếm 36,5%, túi xách đạt 434 triệu USD chiếm 28,6%.
Năm 2013, kim ngạch xuất khẩu của toàn ngành đạt 10 tỷ USD, trong đó các sản phẩm da, giày đạt 8,3 tỷ USD, các sản phẩm túi cặp đạt 1,7 tỷ USD, chiếm tỷ trọng 8% kim ngạch xuất khẩu của cả nước.
Trong 4 tháng đầu năm 2014, xuất khẩu toàn ngành cũng đã đạt 3,7 tỷ USD, tăng trên 26% so với cùng kỳ năm 2013. Trong đó, sản phẩm giày dép đạt 2,9 tỷ USD, các sản phẩm túi xách, vali, cặp, dù đạt 817 triệu USD. Trong đó kim ngạch xuất khẩu sang thị trường EU đạt 984 triệu USD, tăng 26,7%, thị trường Mỹ đạt 947 triệu USD, tăng 26,5%, thị trường Nhật Bản đạt 171 triệu USD, tăng 43,2% và thị trường Trung Quốc đạt 150 triệu USD, tăng 31,4%... so với cùng kỳ năm trước. Nhiều doanh nghiệp da giày đã có đơn hàng đến hết quý 3. Sự tăng trưởng ấn tượng về kim ngạch XK của ngành da giày trong những tháng đầu năm có sự hậu thuẫn lớn từ ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP) từ thị trường EU. Bên cạnh đó thị trường EU, Mỹ có nhiều khởi sắc do tình hình kinh tế đã bắt đầu ổn định. Ngoài ra với lợi thế ổn định về chính trị, lao động, chất lượng hàng hóa, Việt Nam đã và đang thu hút được rất nhiều đơn hàng của các nước khác chuyển sang. Ngành đang có nhiều lợi thế xuất khẩu vào thị trường EU, giữ vị trí lợi thế số 2 sau Trung Quốc, nhưng đang đối mặt với cạnh tranh mạnh từ các nước Ấn Độ, Inđônêxia.
Hiện cứ 3 đôi giầy tiêu thụ nội địa là có 1 đôi do Việt Nam sản xuất và với quy mô 130 triệu đôi giày tiêu thụ trong năm 2013 cho thấy triển vọng thị trưòng nội địa sản phẩm da-giầy ở Việt Nam cũng rất rộng lớn và đang tiếp tục tăng trưởng.
Theo quy hoạch tổng thể phát triển ngành Da-Giày Việt Nam đến năm 2020, tần nhìn 2025, đến năm 2020 mục tiêu của ngành Da-Giày Việt Nam là trở thành ngành công nghiệp xuất khẩu mũi nhọn của nền kinh tế, tạo thêm nhiều công ăn việc làm cho xã hội, nâng cao thu nhập cho người lao động và thực hiện tốt trách nhiệm đối với xã hội. Theo đó, phấn đấu kim ngạch xuất khẩu năm 2015 đạt 9,11 tỷ USD, năm 2020 đạt 14,5 tỷ USD; nâng dần tỷ lệ nội địa hóa sản phẩm, trong đó năm 2015 đạt 60 – 65% , năm 2020 đạt 75 – 80%; với sản phẩm chiến lược là giày dép, trong đó giày thể thao và giày vải được ưu tiên trong sản xuất và xuất khẩu; giày dép da thời trang, cặp, túi vì chất lượng cao nhằm đến thị trường mới, thị trường cao cấp và thị trường nội địa; phát triển mạnh sản xuất nguyên phụ liệu và công nghiệp phụ trợ, tập trung sản xuất da thuộc, vải giả da chất lượng cao với công nghệ tiên tiến thân thiện với môi trường để phục vụ cho việc sản xuất các mặt hàng giày dép da thời trang, cặp túi ví chất lượng cao; nâng cao năng lực thiết kế mẫu mã và phát triển sản phẩm mới; huy động các thành phần kinh tế trong và ngoài nước đầu tư phát triển ngành da giày Việt Nam theo hướng phục vụ nhu cầu trong nước và xuất khẩu; xây dựng các cụm – khu công nghiệp tập trung để kêu gọi các doanh nghiệp sản xuất, nhất là sản xuất sản phẩm da thuộc nhằm tạo điều kiện xử lý môi trường.
Ngành công nghiệp da-giày là một trong những ngành hàng xuất khẩu mũi nhọn, chỉ đứng sau dệt may và dầu thô. Tính chất gia công thuần túy của ngành khiến giá trị gia tăng thấp và không chủ động được đơn hàng và nguồn nguyên liệu…
Hàng năm, Việt Nam chỉ có thể cung cấp 5000 tấn da bò và 100 tấn da trâu, 60% nguồn da này được xuất sang Trung Quốc và Thái Lan,. Vì thế mỗi năm Việt Nam chi từ 170 tới 230 triệu USD để nhập da giả và từ 80 tới 100 triệu USD để nhập khoảng 6 triệu feet vuông da thuộc da từ Thái Lan, Đài Loan và Hàn Quốc.. Nhà máy thuộc da chưa đáp ứng được 10% nhu cầu và hiện chỉ hoạt động được 25% công suất do thiếu nguyên liệu. Chưa đến 20 doanh nghiệp 100% vốn Việt Nam đủ sức làm hàng dạng FOB. Doanh số xuất khẩu của ngành da giày tập trung chủ yếu ở những công ty nước ngoài như Samyang, Pouchen, Pouyuen…Giày vải, mặt hàng vốn là thế mạnh của Việt Nam đang bị Trung Quốc lấn át và Việt Nam hiện xuất khẩu chủ yếu là hàng thể thao, giày dép, hài đi trong nhà.
Làm gì để đón bắt cơ hội mới?
Trên thực tế, Việt Nam đã chủ động được nguyên liệu giày vải (100%) và một số dòng sản phẩm khác (30-40%), nhưng vẫn có đến 70% doanh nghiệp phụ thuộc hoàn toàn vào nguồn nguyên liệu nước ngoài; chủ yếu nhập nguồn nguyên liệu da giày từ 3 thị trường Trung Quốc, Hàn Quốc và Đài Loan (Trung Quốc); số còn lại là các nước Italy và Tây Ban Nha với tỷ trọng không đáng kể. Theo các điều kiện đang được đàm phán (chưa chính thức), để được hưởng mức thuế còn 0% thay vì mức 3,5- 57,4% như hiện nay vào các thị trường TPP, ngành Da giày phải đảm bảo được 55% xuất xứ khu vực. Hiệp định TPP khi đuợc ký kết và có hiệu lực ngay (khả năng vào cuối năm 2014) sẽ tạo động lực và cơ hội mới phát triển ngành da-giày Việt Nam (Hãng Nike đang lấy Việt Nam là địa điểm gia công lớn nhất để xuất khẩu sang Mỹ và sẽ được hưởng thuế suất 0%, thay vì 12% hiện tại).
Ngoài ra, khi FTA giữa Việt Nam với EU được ký kết cũng sẽ tạo cơ hội lớn cho ngành công nghiệp da giày Việt Nam, nhờ việc cắt giảm thuế từ 12,4% về 0% tại thị trường chung của 27 nước EU với dân số 499 triệu dân và thu nhập đầu người cao, và cũng có yêu cầu cao về chất lượng và tiêu chuẩn kỹ thuật sản phẩm.
Các DN FDI, với lợi thế về tiềm lực kinh tế, tài chính, thị trường, khách hàng, đang nhanh nhạy và chủ động triển khai các kế hoạch đón truớc cơ hội mới từ TPP. Nhiều DN FDI đã dịch chuyển nhà máy sản xuất nguyên phụ liệu sang Việt Nam để phục vụ cho sản phẩm xuất khẩu của họ. Các DN Việt Nam hiện nay vẫn khá thờ ơ về TPP. Nhiều DN chưa biết và chưa có động thái gì chuẩn bị đón cơ hội này. Thực tế cho thấy, không chỉ dừng lại ở xác định mục tiêu của ngành trên giấy tờ, mà cần đẩy mạnh hơn nữa công tác tuyên truyền về các cơ hội, thuận lợi và thách thức từ TPP và các FTA giữa Việt Nam với EU và các đối tác khác cho các DN Việt Nam;
Đặc biệt, cần sớm có những quy hoạch vùng công nghiệp da-giày, kể cả cho ngành thuộc da, quy mô lớn vài trăm ha, thuận tiện cho bảo vệ môi truờng và tổ chức sản xuất tập trung, phát triển công nghiệp phụ trợ, với các cơ chế, chính sách trên thực tế thích hợp...
Đồng thời, cần có kế hoạch đa dạng hoá nguồn nguyên liệu cung ứng nhập khẩu và sản xuất, phát triển các khâu thiết kế, chế tạo mẫu mã và ứng dụng công nghệ cao, đẩy mạnh công tác xúc tiến thương mại để chủ động sản xuất các sản phầm da-giày với thuơng hiệu Việt Nam, chất lượng cao và giá thành cạnh tranh…
Thị trường nhập khẩu giày dép vào thị trường Việt Nam
(tháng 1/2014- ĐVT: USD)
|
Thị trường |
T1/2014 |
T1/2013 |
T1/2014 so với T12/2013(%) |
T1/2014 so với T1/2013(%) |
|
Tổng cộng |
859.731.484 |
823.146.363 |
-7,13 |
+4,44 |
|
Hoa Kỳ |
248.125.802 |
241.822.368 |
-10,83 |
+2,61 |
|
Bỉ |
60.610.927 |
49.812.034 |
+0,13 |
+21,68 |
|
Nhật Bản |
56.448.747 |
42.722.203 |
+42,59 |
+32,13 |
|
Đức |
55.981.100 |
53.040.775 |
-18,72 |
+5,54 |
|
Anh |
44.508.678 |
48.706.391 |
-5,17 |
-8,62 |
|
Trung Quốc |
42.472.448 |
36.980.830 |
+48,52 |
+14,85 |
|
Tây Ban Nha |
41.202.075 |
31.853.277 |
+14,02 |
+29,35 |
|
Hà Lan |
35.177.448 |
34.212.463 |
.20,52 |
+2,82 |
|
Italia |
31.537.305 |
28.791.124 |
-3,28 |
+9,54 |
|
Hàn Quốc |
28.996.173 |
23.003.501 |
+11,58 |
+26,05 |
|
Braxin |
28.380.141 |
35.543.349 |
-16,70 |
-20,15 |
|
Pháp |
24.860.848 |
18.065.995 |
-5,24 |
+37,61 |
|
Mexico |
21.098.823 |
22.139.349 |
+16,48 |
-4,70 |
|
Canada |
12.265.372 |
15.297.852 |
-38,38 |
-19,82 |
|
Panama |
11.222.691 |
13.461.460 |
+19,39 |
-16,63 |
|
Hồng Kông |
8.697.619 |
10.291.408 |
-16,64 |
-15,49 |
|
Australia |
8.363.136 |
8.045.832 |
-17,32 |
+3,94 |
|
Slovakia |
7.761.006 |
7.210.154 |
-20,73 |
+7,64 |
|
Nga |
7.013.703 |
10.498.602 |
-31,23 |
-33,19 |
|
Chi Lê |
6.309.210 |
5.871.444 |
-9,53 |
+7,46 |
|
Nam Phi |
6.168.595 |
8.139.926 |
-15,75 |
-24,22 |
|
Achentina |
5.695.214 |
7.160.842 |
+296,18 |
-20,47 |
|
Đài Loan |
5.483.364 |
5.894.563 |
-43,86 |
-6,98 |
|
Thụy Điển |
5.017.898 |
7.986.002 |
-44,29 |
-37,17 |
|
Áo |
4.252.445 |
3.965.882 |
-49,02 |
+7,23 |
|
Ấn Độ |
4.203.373 |
3.988.706 |
+60,56 |
+5,38 |
|
Séc |
3.935.137 |
3.447.919 |
19,71 |
+14,13 |
|
Tiểu vương quốc Ả Rập TN |
3.874.199 |
4.078.727 |
-46,77 |
-5,01 |
|
Singapore |
3.286.130 |
2.624.549 |
-28,93 |
+25,21 |
|
Ba Lan |
3.105.373 |
1.135.304 |
+41,57 |
+173,53 |
|
Israel |
3.056.239 |
1.243.361 |
+39,08 |
+145,80 |
|
Thụy Sĩ |
2.683.561 |
3.361.716 |
-21,47 |
-20,17 |
|
Đan Mạch |
2.652.055 |
4.292.922 |
-37,85 |
-38,22 |
|
Indonesia |
2.432.379 |
1.299.895 |
+15,11 |
+87,12 |
|
Thái Lan |
2.014.320 |
2.117.334 |
-31,91 |
-4,87 |
|
Philippines |
1.969.838 |
2.917.328 |
-27,23 |
-32,48 |
|
Malaysia |
1.917.793 |
3.635.905 |
-57,36 |
-47,25 |
|
NewZealand |
1.541.371 |
1.569.231 |
+11,14 |
-1,78 |
|
Hy Lạp |
1.500.937 |
2.223.802 |
-56,62 |
-32,51 |
|
NaUy |
1.267.979 |
1.388.443 |
-38,22 |
-8,68 |
|
Thổ Nhĩ Kỳ |
1.190.546 |
1.636.700 |
-66,07 |
-27,26 |
|
Phần Lan |
709.174 |
529.706 |
+36,70 |
+33,88 |
|
Ucraina |
260.282 |
827.644 |
-42,48 |
-68,55 |
|
Bồ Đào Nha |
68.979 |
147.766 |
-88,61 |
-53,32 |
(Nguồn: Tổng Cục Hải Quan)
Tiến sĩ Nguyễn Minh Phong
từ ngày 18 – 19/12/2025
VCCI
từ 11/11/2025 đến 30/11/2025
VCCI