11:29:22 | 17/7/2014
Trong bối cảnh tình hình biển Đông diễn biến bất thường kể từ tháng 5/2014, câu hỏi liệu rằng sản xuất và tiêu thụ nông sản của Việt Nam các tháng cuối năm và những năm tiếp theo sẽ ra sao nếu quan hệ Việt-Trung trở nên xấu đi đang nhận được nhiều sự quan tâm của các nhà hoạch định chính sách, các nhà nghiên cứu, các doanh nghiệp và người dân.
Điều này là bởi vì trong những năm gần đây và những tháng đầu năm nay, Trung Quốc là thị trường xuất khẩu hàng đầu của Việt Nam với 4 loại nông sản chính là cao su (chiếm 35,91% thị phần), gạo (chiếm 41,75%), hàng rau quả (chiếm 31,75%) và sắn ( chiếm 86,56%). Xuất khẩu nông, lâm, thủy sản chiếm 31% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Trung Quốc.
Trung Quốc cũng là thị trường nhập khẩu số 1 của Việt Nam đối với 2 loại vật tư nông nghiệp quan trọng là phân bón ( chiếm 45,3% thị phần) và thuốc trừ sâu (chiếm 57,2%). Đáng lưu ý là nhiều mặt hàng Việt Nam có thế mạnh như rau quả, thủy sản vẫn được nhập về từ Trung Quốc, cụ thể là 30% hàng rau quả và 2,9% hàng thủy sản được nhập về từ nước này trong các tháng đầu năm.

Không chỉ vậy, Việt Nam còn nhập cả máy gặt, lúa giống từ Trung Quốc. Theo Cục trồng trọt (Bộ NN&PTNT), Việt Nam có khoảng 700.000 ha giống trồng lúa lai (chủ yếu ở miền Bắc và Bắc Trung bộ) nhưng nguồn giống lúa lại lại chủ yếu nhập từ Trung Quốc (chiếm khoảng 60-70% diện tích). Mỗi năm Việt Nam chi khoảng 40 triệu USD để nhập khẩu 13.000- 15.000 tấn lúa giống từ Trung Quốc, tương đương với xuất khẩu 100.000 tấn gạo cao cấp (5% tấm). Việt Nam có hơn 100 công ty, đơn vị đăng ký sản xuất lúa lai nhưng phần lớn các đơn vị này lại làm chức năng thương mại, tức là mua giống lúa từ Trung Quốc về bán cho nông dân. Đây là một điều không bình thường trong quan hệ thương mại nông sản giữa Việt Nam và Trung Quốc, thể hiện sự yếu kém rõ ràng về phía Việt Nam.
Theo PGS.TS Vũ Thị Minh, Trường ĐH KTQD, tại Hội thảo Khoa học “ Kinh tế VN 6 tháng đầu năm 2014- Những thách thức mới” do Ban Kinh tế TW Đảng, Trường ĐH Kinh tế quốc dân và Ủy ban kinh tế quốc hội tổ chức vừa qua tại HN, trong những tháng cuối năm và những năm tiếp theo, sản xuất và xuất khẩu một số hàng nông sản của Việt Nam sang Trung Quốc có thể bị giảm nếu nước này áp dụng các biện pháp kinh tế mạnh.
Tuy nhiên, theo PGS.TS Minh, do xuất khẩu nông sản của Việt Nam sang Trung Quốc những năm qua chủ yếu là bán thô, bán nhiều và bán rẻ, nên nếu điều này xảy ra thì bản thân các DN và người tiêu dùng Trung Quốc cũng là chịu thiệt hại.
Theo thống kê của Trung tâm tin học và thống kê, Bộ NN và PTNT, xuất khẩu nông sản trong 4 tháng đầu năm của Việt Nam sang Trung Quốc, trừ mặt hàng cao su và sắn giảm, còn lại hầu hết các mặt hàng đều tăng khá cao so với cùng kỳ năm trước, đặc biệt là hàng thủy sản và rau quả. Việc các thương nhân Trung Quốc đổ về Lục Ngạn- Việt Nam thu mua hàng trăm tấn vài quả mỗi ngày mang về nước trong vụ vải tháng 5-6 năm nay cho thấy quan hệ thương mại 2 nước là quan hệ 2 bên cùng có lợi.
Với Việt Nam, nếu giả thiết trên là thật, theo PGS.TS Minh, sản xuất nông nghiệp sẽ bị ảnh hưởng đáng kể trước mắt, cụ thể là Việt Nam sẽ phải giảm sản xuất, dẫn đến giảm việc làm và thu nhập của khoảng 2 triệu hộ nông dân, trong đó có 1,8 triệu hộ trồng lúa, do thị trường bị thu hẹp.
Tuy nhiên, xét về lâu dài, theo PGS.TS Nguyễn Văn Nam- Nguyên Viện trưởng Viện nghiên cứu thương mại, điều này sẽ có lợi hơn cho Việt Nam, “đẩy Việt Nam vào thế phải sống bằng sức của mình, phải nhìn lại mình để khắc phục các hạn chế trước đó, đặc biệt là các yếu kém trong điều hành, quản lý nhà nước về lĩnh vực chế biến và thương mại nông sản”.
Theo PGS. TS Minh, với định hướng phát triển nông nghiệp bền vững, giảm sự lệ thuộc, đặc biệt là với thị trường Trung Quốc, trong thời gian tới, Việt Nam cần phải điều chỉnh cơ cấu cây trồng và vật nuôi theo hướng giảm sự lệ thuộc vào thị trường đầu ra Trung Quốc. Việc điều chỉnh này là hoàn toàn có thể thực hiện được đối với các loại cây ngắn ngày, đặc biệt là rau quả, theo hướng khuyến khích nông dân tập trung vào sản xuất các sản phẩm có hợp đồng tiêu thụ hoặc có địa chỉ tiêu thụ rõ ràng.
Ngoài ra, Chính phủ cũng cần hỗ trợ các DN, các trang trại và hộ nông dân tăng cường năng lực bảo quản, sơ chế và chế biến nông sản, đảm bảo kéo dài hơn thời gian tiêu thụ sản phẩm; khuyến khích các DN xuất khẩu chủ động tìm kiếm đối tác, mở rộng xuất khẩu các mặt hàng nông sản có lợi thế sang các thị trường đòi hỏi chất lượng cao hơn nhưng tiềm năng cung thu được giá trị lớn hơn như Nhật Bản, Hoa Kỳ, Hàn Quốc, úc, Hà Lan, Đức, Nga…
Đặc biệt, theo PGS.TS Minh, cần tổ chức tốt hơn công tác quản lý thị trường, kiểm soát chặ chẽ hoạt động kinh doanh của các thương nhân, các cơ sở buôn bán nhập khẩu hàng nông sản, đảm bảo hạn chế tối đa việc bao gói, gắn mác hàng nông sản Việt Nam cho các hàng nông sản nhập khẩu từ Trung Quốc. Thực tế cho thấy, trên thị trường hiện nay xuất hiện nhiều mặt hàng có xuất xứ từ Trung Quốc có mức giá rẻ được chính những thương lái, chủ buôn người Việt lột mác, dán nhãn Việt để bán cho người tiêu dùng Việt Nam, một mặt đưa ra thị trường những sản phẩm kém chất lượng, mặt khác đã tự tay bóp nghẹt nền sản xuất trong nước. Những mặt hàng chủ yếu là nông sản, hàng may mặc, máy móc và trang thiết bị. Hiện tượng một số tiểu thương tại chợ nông sản Đà Lạt đã thực hiện quy trình làm giả khoai tây Trung Quốc thành khoai tây Đà Lạt một cách công khai trước khi đưa về TP.HCM và các tỉnh thành khác tiêu thụ là một minh chứng cho thực trạng quản lý thị trường lỏng lẻo của Việt Nam.
Về giải pháp lâu dài, PGS, TS Minh cho rằng, Việt Nam cần thiết phải tổ chức lại các ngành hàng sản xuất theo hướng xây dựng và phát triển các chuỗi cung ứng hàng nông sản gắn kết các khâu, từ ứng dụng đầu vào- sản xuất nông nghiệp-chế biến nông sản- tiêu thụ trong nước và xuất khẩu. Đây là giải pháp quan trọng để nông nghiệp Việt Nam tham gia chủ động vào chuỗi cung ứng nông sản toàn cầu, tránh được rủi ro thi trường và giảm sự lệ thuộc vào một hoặc một vài thị trường xuất khẩu nhất định.
Ngoài ra, cần đẩy mạnh thực hành sản xuất nông nghiệp tốt theo hướng áp dụng các Quy chuẩn quốc gia về điều kiện bảo đảm an toàn thực phẩm đối với cơ sở sản xuất và điều kiện bảo đảm an toàn thực phẩm đối với sản phẩm trong quá trình sản xuất, áp dụng tiêu chuẩn ViêtGAP và các tiêu chuẩn GAP khác ( như GlobalGAP, 4C, UTZ Certified, Rain Forest…) nhằm đảm bảo nông sản phẩm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao về chất lượng và an toàn thực phẩm về thị trường tiêu thụ trong nước và xuất khẩu; thực hiện đồng bộ các giải pháp phát triển nông nghiệp bền vững đã đề ra; đẩy mạnh thực hiện cuộc vận động “ Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”…
Anh Mai
từ ngày 18 – 19/12/2025
VCCI
từ 11/11/2025 đến 30/11/2025
VCCI