Cần đa dạng hóa nguồn cung máy móc thiết bị

14:55:51 | 17/7/2014

Nhìn lại trong 12 năm thực hiện chiến lược phát triển ngành cơ khí VN đến năm 2010, tầm nhìn đến năm 2020, giá trị của ngành năm 2013 đạt 700 ngàn tỷ đồng, chiếm 20% tổng giá trị sản xuất công nghiệp toàn ngành công nghiệp; xuất khẩu từ năm 2006 được 1,6 tỷ USD; đến năm 2013 được 13 tỷ USD. Tuy nhiên, hiện ngành cơ khí có nhiều khó khăn như vốn đầu tư hạn chế lại dàn trải thiếu đồng bộ; ngành công nghiệp sản xuất vật liệu cơ bản như luyện kim, hóa chất, công nghiệp phụ trợ không có đủ nguồn hàng, chủ yếu nhập ngoại.

Công nghiệp cơ khí bị ảnh hưởng nặng nề

Ông Nguyễn Văn Thụ, Chủ tịch Hiệp hội doanh nghiệp cơ khí VN- VAMI cho biết, do không có thị trường, hầu hết các dự án công nghiệp dùng cơ chế chỉ định thầu hoặc cơ chế đấu thầu giá thấp nên đều lọt vào tay các nhà thầu TQ. Từ năm 2003 đến 2011, nhà thầu TQ làm tổng thầu EPC 5/6 dự án hóa chất; 2/2 dự án chế biến khoáng sản; 49/62 dự án xi măng và rất nhiều dự án giao thông. Riêng nhiệt điện có 16/27 dự án do TQ làm tổng thầu, chỉ còn 7 dự án không phải nhà thầu TQ.

Thống kê cho thấy, hầu hết các dự án chậm tiến độ từ 3 tháng đến 3 năm, chất lượng thiết bị không đồng đều, một số thiết bị phụ trợ chất lượng thấp thường bị thay thế. Đó là chưa kể phải thay đổi thiết bị so với cam kết ban đầu, thay đổi tiêu chuẩn vật liệu, thay đổi hoặc bổ sung nhà cung cấp. Do đó giá hợp đồng đội lên.


Mặt khác, các nhà thầu TQ thường đem toàn bộ vật tư sắt thép, phụ tùng, phụ kiện có thể chế tạo tại VN và cả lao động phổ thông sang làm tại các công trình mà họ làm tổng thầu.

(Ví dụ như Nhà máy Alumin Lâm Đồng gói thầu là 466 triệu USD giao cho VN 170 tỷ đồng (không được 8 triệu USD); Nhà máy Alumin Nhân Cơ giá trị hợp đồng là 499 triệu USD giao thầu phụ VN là 53 tỷ đồng ( 2,5 triệu USD).

Có thể nói ngành công nghiệp cơ khí bị ảnh hưởng nặng nề nhất về việc các nhà thầu TQ làm tổng thầu các dự án công nghiệp không giành phần việc nào cho cơ khí trong nước. Tỷ lệ nhập siêu lên tới 100% và vì thế tốc độ nhập siêu từ TQ luôn cao hơn mức trung bình nhập siêu của cả nước và đang tăng mạnh. Nếu năm 2002 nhập siêu từ TQ mới chỉ đạt 1 tỷ USD thì sau 10 năm lên đến 20 tỷ USD, trong đó nhập siêu do nhóm thiết bị đồng bộ hàng năm lên tới 10 tỷ USD.

Xem xét lại các dự án do TQ làm tổng thầu

Ông Thu cho biết, Luật Đấu thầu của VN ưu tiên các nhà thầu có giá bỏ thầu thấp mà chưa quan tâm đến nguồn gốc xuất xứ về chất lượng thiết bị. Cả thế giới phải thua TQ nếu chỉ xét về giá. Do đó, TQ thắng thầu hầu hết các dự án lớn tại VN. Cũng một phần khi đấu thầu quốc tế rộng rãi thì chỉ có các nhà thầu TQ tham gia, các nhà thầu nước khác không muốn tham gia nữa.

Ngoài ra, nhiều chủ đầu tư chọn phương pháp đấu thầu EPC mà ngại trong việc tách các phần công việc để có các gói thầu phù hợp với điều kiện nhà thầu trong nước làm được. Đó là chưa kể công tác kiểm tra giám sát đánh giá năng lực nhà thầu của chủ đầu tư còn yếu, thiếu thông tin về năng lực nhà thầu; việc thương thảo và ký kết hợp đồng chưa chặt chẽ, chưa quyết liệt thực hiện các biện pháp chế tài xử lý vi phạm nhà thầu. Đồng thời chưa có chế tài đủ mạnh xử lý nghiêm các chủ đầu tư không quản lý tốt các dự án đầu tư. Vì thế dẫn đến nhà thầu sử dụng 100% thiết bị vật liệu và lao động phổ thông trên các công trường xây dựng.

Nhiều dự án thực hiện chỉ định thầu EPC là do nhà thầu TQ thu xếp tài chính từ nguồn vay từ TQ với lãi suất thấp, thủ tục vay đơn giản. Chính phủ TQ cũng có chính sách hỗ trợ giúp xuất khẩu, lãi vay ngân hàng của TQ thấp, tỷ giá NDT/USD chênh lệch càng làm lợi thế giá để TQ thắng thế.

Trong tình hình cấp bách cho cung cấp điện có cơ chế 1195 ngày 9/11/2005, gọi là cơ chế nhân đôi ( giao cho nhà thầu EPC đã có 1 hợp đồng đang triển khai cho 1 dự án để thực hiện 1 dự án có quy mô và vị trí tương tự với điều kiện thu xếp được vốn), thực chất là chỉ định thầu lại càng làm cho tổng thầu EPC TQ chiếm nhiều dự án nhiệt điện chạy than ở VN.

Mặt khác, các giải pháp cơ chế chính sách đã ban hành hỗ trợ ngành cơ khí không được thực hiện nghiêm túc, các cơ chế chính sách phát triển ngành cơ khí còn thiếu nhất quán. Chưa kể là VN phụ thuộc vào phần lớn nguyên liệu, phụ liệu cho ngành chế tạo cơ khí cũng là những khó khăn lớn ( VN nhập của TQ tới 2 triệu tấn sắt thép các loại, cả thép hình, thép tấm) mà giá cả thấp hơn các nước khác như Hàn Quốc, Nhật Bản từ 15-20% giá thành.

Ông Thụ cho biết, trước tình hình biến động ở biển Đông do nhiều dự án tổng thầu TQ làm tại VN có những gián đoạn trục trặc, VAMI đã gửi báo cáo lên Chủ tịch nước và Thủ tướng Chính phủ đề nghị cho chủ trường kiểm tra lại toàn bộ các dự án công nghiệp do TQ đang thi công dở dang để huy động lực lượng trong nước kết hợp với các nhà thầu nước ngoài khác hoàn chỉnh các dự án này. Đây là một thách thức lớn song cũng là cơ hội để các nhà thiết kế và xây lắp trong nước vượt lên chính mình trong sự nghiệp xây dựng đất nước trở thành một nước văn minh, cường thịnh tồn tại bên cạnh nước láng giềng đầy bất trắc.

Với mục tiêu phát triển ngành cơ khí VN ổn định, bền vững, phát huy được vai trò của ngành trong giai đoạn hiện nay, ông Thụ cho biết, cộng đồng DN cơ khí đã kiến nghị Chính phủ cần xây dựng kế hoạch phát triển ngành cơ khí VN từng 5 năm, trên cơ sở phải có đầu mối Nhà nước để quản lý và phân phối nguồn lực; cần lấy ý kiến cộng đồng DN, hiệp hội ngành nghề khi xây dựng kế hoạch, quy hoạch, chính sách ngành cơ khí để mang tính thực thi. Bên cạnh đó, Chính phủ sớm chủ trì một cuộc họp với các Bộ, ngành chức năng liên quan và Hiệp hội DN cơ khí VN để bàn chủ trương giải quyết các dự án của các nhà thầu TQ hoặc có liên quan đến nhà thầu TQ khi phía TQ bỏ dở hoặc đình chỉ để chủ động có phương án cụ thể đối với từng dự án nếu TQ không tiếp tục thực hiện.

Ngoài ra, theo ông Thụ, VN cần cải tiến biểu danh mục mã hàng hóa nộp thuế đối với hàng hóa, sản phẩm cơ khí: máy, cụm, chi tiết ô tô và máy, thiết bị khác để DN dễ thực hiện; sửa đổi chính sách thuế đối với các DN sử dụng vật tư, sản phẩm vào sản xuất, lắp ráp thành phẩm của DN, tránh tình trạng thuế chồng thuế gây khó khăn cho DN và tăng giá thành sản phẩm, giảm sức cạnh tranh.

Đối với các thành viên VIMA, cần nhanh chóng liên kết, hợp tác sản xuất, xây dựng các tổ hợp chuyên ngành; đặc biệt phải chú ý chất lượng sản phẩm cơ khí phải phù hợp với các tiêu chuẩn kỹ thuật trong nước và tiến tới đảm bảo tiêu chuẩn quốc tế.

Quỳnh Chi