10:13:42 | 29/7/2014
Kinh tế vườn và kinh tế thủy sản được xác định là 2 thế mạnh trong sản xuất khu vực I của Bến Tre. Và thời gian qua, 2 lĩnh vực mũi nhọn này ngày càng phát triển theo hướng sản xuất sạch, an toàn thực phẩm và giảm thiểu ô nhiễm môi trường với các mô hình liên kết sản xuất tiêu thụ định hướng liên kết 4 nhà.
Khẳng định thương hiệu trên thị trường
Trong lĩnh vực thủy sản, tỷ trọng nuôi trồng hiện chiếm 73% giá trị sản xuất. Diện tích nuôi trồng thủy sản năm 2013 đạt 44.081 ha (tăng 1.800 ha so năm 2005), sản lượng đạt 237.153 tấn (tăng gần 174.000 tấn so năm 2005). Các đối tượng thủy sản chủ yếu của tỉnh là tôm biển, nghêu sò, cá tra. Theo Giám đốc Sở NN&PTNT Bến Tre – ông Đoàn Văn Đảnh, toàn tỉnh hiện nay có 12 khu nuôi cá tra thâm canh đã được chứng nhận GlobalGAP với tổng diện tích 182 ha, 4 khu nuôi đạt chứng nhận ASC, 2 khu nuôi đạt chứng nhận VietGAP và 1 khu nuôi đạt chứng nhận Aqua GAP.

Trong lĩnh vực khai thác thủy sản, số lượng tàu khai thác thủy sản xa bờ tăng nhanh, năm 2013 số tàu xa bờ 1.728 chiếc, tăng hơn 550 tàu so năm 2008; sản lượng khai thác năm 2013 đạt hơn 154.000 tấn tăng hơn 64.000 tấn so năm 2008. Công tác quản lý và tổ chức sản xuất đã tạo nhiều điều kiện thuận lợi để hỗ trợ ngư dân cải hoán phương tiện, phương thức đánh bắt xa bờ, nhằm gia tăng hiệu quả đánh bắt, bảo vệ nguồn lợi thủy sản, đảm bảo an ninh, trật tự bảo vệ trên biển. Đặc biệt các chương trình, dự án quy hoạch và đầu tư cơ sở hạ tầng phục vụ phát triển kinh tế thủy sản đều được ngành triển khai thực hiện khá tốt và đã phát huy hiệu quả tích cực; nhiều dự án tiếp tục được đầu tư nâng cấp mở rộng nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế biển của tỉnh.
Trong phát triển kinh tế vườn, hiện tỷ trọng cây lâu năm (cây dừa, ca cao và cây ăn quả) chiếm đến 55% giá trị sản xuất nông nghiệp toàn tỉnh. Năm 2013, diện tích cây lâu năm đạt khoảng 90.000 ha (tăng hơn 12.800 ha so năm 2005); sản lượng đạt 804.000 tấn (tăng hơn 165.000 tấn so năm 2005). Sản xuất cây ăn trái tập trung phát triển các loại cây đặc sản thế mạnh của tỉnh như bưởi da xanh, sầu riêng, măng cụt, chôm chôm, nhãn....; một số sản phẩm trái cây đạt tiêu chuẩn GAP đã tiếp cận được thị trường khó tính như châu Âu và Mỹ. Đến nay toàn tỉnh có 11 mô hình sản xuất được cấp giấy chứng nhận GAP, trong đó có 4 mô hình GlobalGAP và 7 mô hình VietGAP. Tại Bến Tre hiện có khoảng 6.000ha ca cao; trong đó có 4 doanh nghiệp và 1.417 nông dân trồng ca cao được chứng nhận theo tiêu chuẩn UTZ (tương đương GlobalGAP), tạo tiền đề cho việc phát triển ca cao hữu cơ theo chuỗi giá trị hiệu quả bền vững.
Phát triển theo định hướng tái cơ cấu ngành nông nghiệp
Trên nền tảng những thành quả đạt được trong phát triển kinh tế vườn và kinh tế thủy sản, trong chiến lược phát triển kinh tế đến năm 2020 Bến Tre tiếp tục tập trung đầu tư, phát triển mạnh hai mũi nhọn này gắn với phát triển mạnh công nghiệp chế biến, xem đây là thế mạnh tạo bước đột phá trong chuyển dịch và phát triển kinh tế tỉnh nhà.
Cụ thể đối với kinh tế vườn, tỉnh tập trung phát triển theo quy mô lớn, xây dựng chuỗi giá trị sản phẩm chủ lực của tỉnh từ sản xuất, thu hoạch, bảo quản, chế biến cho đến tiêu thụ.Đầu tư thâm canh tăng năng suất vườn dừa, phát triển theo mô hình liên kết sản xuất gắn với phát triển công nghiệp chế biến dừa nhằm nâng cao giá trị gia tăng của sản phẩm dừa. Theo đó ngành nông nghiệp tỉnh tiếp tục triển khai thực hiện các dự án 10.000 ha ca cao xen trong vườn dừa; dự án cải tạo vườn dừa kém hiệu quả giai đoạn (2013-2016) và dự án hỗ trợ nuôi tôm càng xanh trong vườn dừa để nâng cao thu nhập cho người trồng dừa.
Cùng với cây dừa, Bến Tre tập trung đầu tư phát triển vùng chuyên canh cây ăn trái đặc sản theo hướng thực hành sản xuất nông nghiệp tốt (GAP) và xây dựng một số thương hiệu sản phẩm trái cây của tỉnh. Ông Đảnh cho biết trước mắt tỉnh tập trung xây dựng hệ thống giống cây ăn trái mới nhằm tạo ra sản phẩm có năng suất và chất lượng cao, có sức cạnh tranh đáp ứng yêu cầu thị trường để nâng cao hiệu quả kinh tế vườn và thu nhập người làm vườn. Ngoài ra tỉnh cũng chú trọng sản xuất các loại hoa kiểng có chất lượng, sạch bệnh cũng như phát triển các loại hoa kiểng mới có giá trị kinh tế cao để mở rộng thị trường xuất khẩu.
Đối với kinh tế thủy sản, ngành nông nghiệp tỉnh khuyến khích mở rộng diện tích nuôi công nghiệp, bán công nghiệp trong vùng quy hoạch; áp dụng công nghệ cao và quy trình thực hành nuôi tốt (GAP) phù hợp quy chuẩn quốc tế; xây dựng và nhân rộng mô hình nông ngư kết hợp trên đất lúa kém hiệu quả. Ngoài ra tỉnh sẽ chủ động thực hiện cơ cấu lại tàu khai thác ven bờ, chuyển sang khai thác bằng tàu công suất lớn hoạt động xa bờ; thực hiện chính sách hỗ trợ ngư dân đánh bắt xa bờ có hiệu quả và an toàn; khuyến khích phát triển khai thác xa bờ, hoàn thiện và nhân rộng mô hình tổ, đội khai thác thủy sản trên biển. Song song với việc hỗ trợ nâng cao năng lực khai khai thác và áp dụng kỹ thuật, công nghệ giảm thất thoát sau thu hoạch, tỉnh cũng sẽ hỗ trợ các doanh nghiệp thu mua, bảo quản, chế biến thủy sản đầu tư, đổi mới thiết bị, công nghệ chế biến và áp dụng các tiêu chuẩn sản xuất tiên tiến; kết hợp tổ chức lại sản xuất theo chuỗi giá trị, gắn kết chế biến, tiêu thụ với sản xuất nguyên liệu đảm bảo nâng cao chất lượng, an toàn thực phẩm và bảo vệ môi trường.
Tuấn Minh
từ ngày 18 – 19/12/2025
VCCI
từ 11/11/2025 đến 30/11/2025
VCCI