Động lực tăng trưởng mới

15:28:57 | 22/10/2014

Mức tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong năm 2013 chỉ dừng ở con số GDP đạt 5,62%. Trong khi trước đó giai đoạn 2000 -2005 Việt Nam đạt mức tăng trưởng bình quân hàng năm 7%. Phải làm gì, chuyển đổi cơ cấu kinh tế, thể chế nhà nước ra sao để tìm lại hướng tăng trưởng kỷ lục trên chính là nội dung chính của Hội thảo “Kinh tế Việt Nam đến 2025: Cơ hội và thách thức”, diễn ra mới đây tại Hà Nội.

Nguy cơ tụt hậu là rất cao

Đưa ra một thông điệp khá mạnh mẽ tại Hội thảo, Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng cho rằng, trong bối cảnh nền kinh tế thế giới có những sự dịch chuyển mạnh mẽ. Hầu hết các quốc gia đều có những chính sách đi trước đón đầu tận dụng tối đa lợi thế thì Việt Nam vẫn mù mờ về kịch bản tăng trưởng kinh tế của mình trong vòng 10 năm tới. Thứ trưởng Dũng cũng thẳng thắn nhận định, khả năng tụt hậu của Việt Nam đã nhìn thấy được chứ không còn là nguy cơ dự báo. Và nếu không có những cam kết thay đổi thể chế của Chính phủ, sự chung tay của cộng đồng doanh nghiệp thì nguy cơ Việt Nam có mức thu nhập trung bình có thể còn kém cả Myanmar, Lào hoặc Campuchia.


Cụ thể, trong giai đoạn 2000 -2005, tăng trưởng kinh tế bình quân của Việt Nam đạt mức 7%, giai đoạn 2006-2010 giảm xuống còn 6,3% và giai đoạn 2011-2013 tăng trưởng nền kinh tế Việt Nam chỉ đạt được mức tăng trưởng khiêm tốn, chỉ khoảng 5,62%/năm. Năm 2012 tăng trưởng kinh tế ở mức thấp nhất trong 15 năm qua, đến năm 2013 và 3 quý đầu năm 2014 tốc độ tăng GDP đã cao hơn năm 2012. Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng kinh tế còn thấp do lực cầu nội địa yếu và ảnh hưởng từ khủng hoảng kinh tế thế giới. Bên cạnh đó, do kinh tế trong nước mất cân đối và kém hiệu quả, mô hình tăng trưởng dựa nhiều vào thâm dụng vốn và lao động, hiệu quả đầu tư thấp, doanh nghiệp trong nước đang trong quá trình tái cơ cấu nhưng chưa vững chắc, xuất khẩu còn dựa nhiều vào doanh nghiệp có vốn đầu từ nước ngoài, một số lĩnh vực phát triển nhanh nhưng kém bền vững như bất động sản, chứng khoán, thâm hụt ngân sách lớn, nợ xấu cao,…

Thấy rõ được những yếu kém tồn tại trong nền kinh tế trên, Chính phủ đã quyết liệt thực hiện các giải pháp đồng bộ nhằm vực dậy nền kinh tế như: Đẩy mạnh cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, điều chỉnh Luật Doanh nghiệp, cải cách đầu tư công theo hướng chuyển từ xây dựng kế hoạch đầu tư hàng năm sang kế hoạch trung, dài hạn và nâng cao trách nhiệm của các cơ quan quyết định đầu tư. Đồng thời, Chính phủ cũng tái cấu trúc hệ thống tài chính ngân hàng, song song với xử lý nợ xấu, thúc đẩy tăng trưởng tín dụng... Các giải pháp đồng bộ này đã đem đến những kết quả khả quan. Cụ thể, kinh tế vĩ mô ổn định, tăng trưởng phục hồi, lãi suất ngân hàng liên tục giảm, dự trữ ngoại tệ tăng cao, thặng dư thương mại năm 2014 dự kiến đạt 1,5 tỷ USD, lĩnh vực bất động sản, xây dựng, chứng khoán... đã dần vượt qua khó khăn.

Tuy nhiên, cũng theo Thứ trưởng Dũng những giải pháp trên đúng nhưng chưa đủ. Thời gian tới, Việt Nam cần có những thay đổi cơ bản nhằm phù hợp với xu hướng phát triển mới, quan trọng hơn chúng ta phải đón nhận được các cơ hội quý báu từ hội nhập quốc tế mang lại. Do đó, trong giai đoạn 2014-2020, nền kinh tế Việt Nam cần thực hiện cho được các mục tiêu là duy trì và giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, thúc đẩy mạnh mẽ tốc độ tăng trưởng kinh tế, tạo đà phát triển bền vững nền kinh tế trong dài hạn.

Lắng nghe ý kiến chuyên gia

Đưa ý kiến tại Hội thảo, GS Nguyễn Mại cho rằng muốn Việt Nam muốn cải cách thể chế tốt, môi trường đầu tư thông thoáng thu hút được nhiều nhà đầu tư nước ngoài thì chúng ta phải tạo ra sự bình đẳng thực sự giữa doanh nghiệp từ nhân và doanh nghiệp nhà nước. Tuy nhiên, GS Nguyễn Mại cũng nhấn mạnh rằng, Việt Nam vẫn phải chú trọng phát triển cộng đồng doanh nghiệp trong nước chứ không nên quá trông chờ vào các doanh nghiệp FDI.

TS. Đoàn Hồng Quang chuyên gia của WB lại nhấn mạnh vào việc, có một yếu tố tạo ra động lực tăng trưởng kinh tế khá tốt đó là lực lượng lao động mà lâu nay Việt Nam chưa dành thời gian đầu tư và phát triển. TS Quang cho rằng, Việt Nam hiện đang phải gánh chụi mức chênh lệch năng suất lao động giữa công nghiệp và nông nghiệp là khá cao, ở mức gấp 5 lần. Do đó nếu khéo làm, các nhà hoạch định chính sách nên có sự điều chuyển lao động hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp sang lĩnh vực công nghiệp. Điều này sẽ tạo ra sự bứt phá lớn đóng góp vào tốc độ tăng trưởng của Việt Nam. Ngoài ra, việc chuyển đổi lao động từ khu vực nhà nước sang khối tư nhân hứa hẹn cũng mang lại khả năng tăng trưởng tốt, bởi theo xu hướng mới, tỷ lệ đóng góp của khu vực kinh tế tư nhân ngày càng tăng.

Tại Hội thảo, PGS.TS Nguyễn Văn Thành, Trung tâm Thông tin và Dự báo kinh tế - xã hội Quốc gia (NCIF) cũng đã đưa ra hai kịch bản cho Việt Nam trong 5 năm tới, Kịch bản thứ nhất với mô hình tăng trưởng được chuyển đổi chậm, không liên tục; không tận dụng tốt cơ hội từ hội nhập quốc tế; quản trị Nhà nước chưa được cải thiện đáng kể. Việt Nam sẽ duy trì tốc độ tăng trưởng ở mức 6,5%; lạm phát 6,7%; tốc độ tăng đầu tư cho sản xuất (vốn đầu tư/GDP) 13,14%. Còn ở kịch bản thứ 2, chuyển đổi mô hình tăng trưởng được thực hiện liên tục theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa và lợi thế so sánh của nền kinh tế; tận dụng được lợi thể từ các hiệp định FTA song phương và đa phương; quản trị Nhà nước có nhiều tiến bộ. Việt Nam sẽ duy trì tốc độ tăng trưởng ở mức 7,1%; lạm phát 7,21%; tốc độ tăng đầu tư cho sản xuất (vốn đầu tư/GDP) 15,30%.


Nhận định về các kịnh bản kinh tế được các chuyên gia đưa ra tại Hội thảo, Thứ trưởng Dũng cho rằng, công việc xây dựng kế hoạch kinh tế 5 năm là rất quan trọng. Tuy nhiên, Việt Nam muốn đạt được những mục tiêu trên thì phải chú trọng đến những giải pháp lớn như: Cần tăng cường đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo chiều sâu; nâng cao cao suất chất lượng và hiệu quả cạnh tranh của nền kinh tế. Từ đó, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững; tiếp tục phát triển đồng bộ thể chế kinh tế thị trường, cơ cấu lại ngành sản xuất, dịch vụ cho phù hợp với nhu cầu tăng trưởng; thúc đẩy lại cơ cấu doanh nghiệp, tăng cường sức cạnh tranh của sản phẩm trên trường quốc tế. Quan trọng hơn, ngoài các cải cách hay đổi mới về thế chế thì Việt Nam cũng cần đặc biệt quan tâm đến con người đó chính là một trong những động lực đòn bẩy trong phát triển kinh tế thời gian tới.

Anh Phương