Cơ hội và thách thức của ngành chế biến nông sản

13:36:04 | 16/12/2014

Một trong những nguyên nhân khiến giá trị hàng nông sản Việt Nam xuất khẩu thường thấp hơn từ 15 – 50% so với sản phẩm cùng loại từ nước khác là nền công nghiệp chế biến nhỏ lẻ, lạc hậu. Đó là nhận định được ông Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Cao Đức Phát công bố tại Hội thảo với chủ đề “Thúc đẩy công nghiệp chế biến nông sản: Cơ hội và thách thức”, được Nhóm Hỗ trợ quốc tế (ISG) tổ chức tại Hà Nội mới đây.

Công nghiệp chế biến chưa đủ mạnh

Báo cáo của Cục Chế Biến nông sản do ông Nguyễn Trọng Thừa công bố tại hội thảo cho phép nhận xét điều đó. Báo cáo này cho biết: ngành chế biến nông sản Việt Nam chiếm tỷ trọng khoảng 20% GDP trong lĩnh vực công nghiệp chế biến. Mức tăng trưởng hàng năm của ngành này khoảng 7,44%. Chế biến nông sản ở quy mô công nghiệp đã thu hút khoảng 1,5 triệu lao động trực tiếp, với mức thu nhập bình quân khoảng 3,5 triệu đồng/tháng và hàng chục triệu lao động sản xuất nguyên liệu, dịch vụ.


Theo kết quả điều tra doanh nghiệp chế biến nông sản năm 2013 đối với 12 ngành hàng chủ yếu là lúa gạo, cà phê, cao su, chè, điều, đường mía, rau quả, hồ tiêu, thịt, thủy sản, thức ăn chăn nuôi và chế biến gỗ, cả nước có 6.610 doanh nghiệp và hàng ngàn hộ gia đình hoạt động trong lĩnh vực chế biến.

Việt Nam là một đất nước có thế mạnh về nông nghiệp nhưng ngành công nghiệp chế biến nông sản chưa tận dụng được nhiều cơ hội mang lại từ thế mạnh đó. Theo ông Nguyễn Trọng Thừa, ngành công nghiệp chế biến nông sản Việt nam chưa được đầu tư đúng mức, công nghệ lạc hậu, chưa có nhiều sản phẩm theo hướng chế biến tinh, chế biến sâu, chưa tạo ra các sản phẩm có giá trị gia tăng cao. Điển hình nhất của tình trạng này là nhiều sản phẩm nông sản xuất khẩu của Việt Nam có vị thế cao trên thị trường (về số lượng), song tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu ở phân khúc GTGT thấp.

Nhận diện thách thức

Thách thức đầu tiên được nêu rõ trong báo cáo là ngành nông nghiệp Việt Nam hiện không bảo đảm sự ổn định về chất lượng và số lượng của nguồn nguyên liệu. Với chất lượng nguyên liệu đầu vào được thu mua từ các nông hộ nhỏ lẻ, thủy phần và tỷ lệ dinh dưỡng không đảm bảo, sản phẩm thủy sản còn nhiều vấn đề về sử dụng kháng sinh trong nuôi trồng... ngành chế biến nông sản Việt Nam khó có thể có được sự bứt phá về chất lượng sản phẩm đầu ra.

Mặt khác công nghệ chế biến nông sản còn lạc hậu, chưa chú trọng đầu tư đổi mới công nghệ nên các sản phẩm nông sản Việt Nam chủ yếu là chế biến thô, đơn giản. Sản phẩm chất lượng thấp chiếm tỷ trọng lớn. Nhiều sản phẩm tiềm ẩn nguy cơ mất an toàn thực phẩm. Giá giá thành sản xuất cao, giá bán thấp.

Những thách thức lớn và dễ nhận thấy khác là ngành chế biến nông sản Việt Nam chậm chuyển dịch cơ cấu sản phẩm chế biến theo hướng nâng cao giá trị gia tăng cao; Việc sử dụng các phế, phụ phẩm chưa được quan tâm đúng mức; công nghiệp hỗ trợ để hoàn thiện sản phẩm chậm phát triển; Thông tin và định hướng thị trường còn nhiều bất cập; Thương mại và hạ tầng thương mại yếu kém, chưa đủ tầm để chủ động giao dịch trên thị trường khu vực và thế giới.

Cơ hội

Để có thể nâng cao giá trị gia tăng và các sản phẩm nông sản “made in Việt Nam” tham gia sâu hơn vào chuỗi cung ứng toàn cầu, các chuyên gia nước ngoài tham dự hội thảo nhấn mạnh: đối với lĩnh vực chế biến nông lâm thủy sản Việt Nam cần phải tái cơ cấu ngành hàng với trục xoay là thị trường; tái cơ cấu vùng sản xuất với trục xoay là lợi thế và tái cơ cấu sản phẩm với trục xoay là giá trị gia tăng hướng tới mục tiêu đến năm 2020, giá trị gia tăng của các ngành hàng nông lâm thủy sản sẽ tăng bình quân 20% so với hiện nay, trong đó tập trung vào các ngành hàng có lợi thế cạnh tranh lớn như: gạo, cà phê, cao su, thủy sản, chè…

Ông Henning Pedersen - Trưởng đại diện Quỹ Phát triển nông nghiệp quốc tế (IFAD) tại Việt Nam khuyến cáo:  “Cùng với việc ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ trong chế biến, bảo quản sản phẩm, Chính phủ cũng cần có cơ chế khuyến khích cộng đồng doanh nghiệp áp dụng rộng rãi hơn các tiêu chuẩn quốc tế nhằm đáp ứng tốt nhất các yêu cầu về chất lượng an toàn thực phẩm; tạo ra chuyển biến rõ rệt về chất lượng và vượt qua được các rào cản kỹ thuật của các thị trường nhập khẩu”.

Nói về cơ hội của ngành chế biến nông sản Việt Nam, Bộ trưởng Cao Đức Phát cho biết: tháng 6/2013, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt đề án “Tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững”. Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn đã ban hành đề án và kế hoạch hành động “Nâng cao giá trị gia tăng hàng nông lâm thủy sản trong chế biến và giảm tổn thất sau thu hoạch”, các kế hoạch hành động cho các lĩnh vực khác nhau từ tái cơ cấu đầu tư công, khoa học kỹ thuật,  trồng trọt, chăn nuôi, thủy sản và lâm nghiệp....

Với quan điểm lấy thị trường là xuất phát điểm thúc đẩy, điều chỉnh phân bổ nguồn lực sản xuất trong ngành, Bộ khuyến khích các doanh nghiệp tham gia đầu tư sâu hơn trong các phân khúc có giá trị gia tăng cao như chế biến, thương mại trong chuỗi giá trị hàng hóa nông sản. Ứng dụng khoa học công nghệ, đặc biệt công nghệ hiện đại để chuyển dịch nhanh cơ cấu sản phẩm sang chế biến sâu, nâng cao năng lực cạnh tranh được coi như một mũi nhọn.

Để cải thiện môi trường đầu tư , ngành Nông nghiệp đang nỗ lực tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa những doanh nghiệp nhà nước và tư nhân; tập trung xây dựng cơ sở hạ tầng hỗ trợ cho phát triển các cụm nông-công nghiệp; có chính sách khuyến khích đầu tư vào các vùng kém phát triển, có cơ chế gắn kết nông dân, hộ nông dân nhỏ vào chuỗi cung ứng và có chính sách để phân phối bình đẳng chuỗi giá trị sản phẩm.

Việt Nam ngày càng hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu, rộng hơn. cơ hội để phát triển ngành công nghiệp chế biến nông sản đã rất rõ ràng. Không chỉ doanh nghiệp, các nhà đầu tư mà ngay cả cơ quan điều hành cũng cần song hành cùng doanh nghiệp để vượt qua thách thức nắm bắt lấy những cơ hội này – theo ông Cao Đức Phát.

Thanh Yên