Nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế để tham gia hiệu quả vào AEC 2015

10:38:52 | 12/2/2015

Cải cách hành chính (CCHC) ở Việt Nam bắt đầu khá muộn so với các nước khác, và nó được khởi xướng bởi hàng loạt các yếu tố như cơ chế quản lý kinh tế mới, đòi hỏi từ những yếu kém của chính nền hành chínhcủa tiến trình hội nhập quốc tế. Đặc biệt khi tham gia Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) năm 2015 tới sẽ mở ra nhiều cơ hội cũng như thách thức cho Việt Nam thì việc cải cách hành chính công càng cần phải đẩy mạnh.

Nhằm đưa ra bức tranh tổng thể về vấn đề này, Đề tài “Cải cách khu vực công ở Việt Nam và những bài học kinh nghiệm trong khối ASEAN” đã tập trung nghiên cứu thực trạng cải cách hành chính công phục vụ phát triển kinh tế, cải thiện môi trường kinh doanh và giới thiệu những bài học kinh nghiệm từ ASEAN. Vietnam Business Forum đã có cuộc trao đổi với TS Đoàn Duy Khương, Phó chủ tịch VCCI, chủ biên Đề tài xung quanh vấn đề này. Quỳnh Chi thực hiện.

Thưa ông, việc thúc đẩy CCHC tại Việt Nam trong những năm qua đã mang lại những cải cách thuận lợi ra sao?

Chính phủ Việt Nam cam kết đẩy nhanh quá trình CCHC, thực hiện đồng bộ các giải pháp để phấn đấu năm 2015, các chỉ tiêu về môi trường kinh doanh của Việt Nam đạt và vượt mức trung bình của các nước ASEAN-6 (Bruney, Indonexia, Malayxia, Philippin, Singapore và Thái Lan).

Trong những năm qua, cải cách hành chính công đã mang lại kết quả đáng kể, góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển, ổn định xã hội và hội nhập kinh tế quốc tế. Các thủ tục hành chính luôn được quan tâm cải cách để phục vụ người dân, doanh nghiệp và xã hội ngày càng tốt hơn, hạn chế sự sách nhiễu của các cơ quan nhà nước hướng đến việc đơn giản hóa thủ tục hành chính. Cải cách tài chính công đã có được bước tiến lớn qua chương trình cải cách thuế bước 2, thể hiện ở Luật Quản lý thuế (chính sách thu thuế, tự kê khai nộp thuế), giải quyết các giao dịch, thủ tục hành chính một cửa; Triển khai Hải quan điện tử… đã hạn chế tiêu cực, tiết kiệm thời gian, tiền của nhân dân, doanh nghiệp và xã hội.

Chính phủ cũng đã ban hành Nghị quyết và chỉ đạo thực hiện quyết liệt, đồng bộ nhiều giải pháp, nhất là cải cách thủ tục hành chính trong các lĩnh vực về thuế, hải quan, bảo hiểm xã hội, cấp phép xây dựng, đất đai, tiếp cận điện năng, thành lập, giải thể doanh nghiệp, thủ tục đầu tư... Những cải cách này đã bước đầu mang lại nhiều thuận lợi cho DN, người dân cũng như góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế của đất nước.

Một phần của CCHC chính là để cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi hơn nữa. Vậy ông đánh giá như thế nào về môi trường đầu tư của Việt Nam khi thực hiện CCHC?

Qua quá trình cải cách hành chính, môi trường kinh doanh được cải thiện đáng kể trong những năm gần đây. Báo cáo cập nhật về Môi trường kinh doanh tính đến tháng 06/2014 của World Bank đã xếp hạng môi trường kinh doanh của Việt Nam tăng 21 bậc, từ 99 lên 78/189. Theo Báo cáo năng lực cạnh tranh toàn cầu công bố tháng 9/2014 của Diễn đàn Kinh tế Thế giới, chỉ số năng lực cạnh tranh của Việt Nam tăng 2 bậc, từ 70 lên 68/148 nền kinh tế. Các tổ chức xếp hạng tín nhiệm quốc tế đã nâng mức xếp hạng tín nhiệm của Việt Nam (Moody’s nâng từ mức B2 lên B1, Fitch nâng từ B+ lên BB- và đều đánh giá với triển vọng ổn định).

Tuy nhiên, môi trường đầu tư kinh doanh Việt Nam còn nhiều hạn chế, cải thiện còn chậm, ảnh hưởng đến thu hút đầu tư, hiệu quả sản xuất kinh doanh, sức cạnh tranh và so với các nước trong khu vực còn thấp. Mặc dù Việt Nam đã có nhiều nỗ lực, nhưng trong thể chế luật pháp, cơ chế chính sách, thủ tục hành chính, thực thi công vụ... vẫn còn nhiều bất cập, vướng mắc, gây khó khăn, phiền hà, tốn kém thời gian, chi phí cho doanh nghiệp và người dân. Một số bộ ngành, địa phương chưa quan tâm đúng mức, chưa coi việc cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh và nâng cao năng lực cạnh tranh là nhiệm vụ cấp thiết…

Một số nước trong khối ASEAN đã có nhiều chuyển biến tích cực khi thực hiện CCHC công. Ông có thể cho biết một vài ví dụ và những điểm tương đồng với Việt Nam?

Indonexia là trường hợp quốc đảo phản ảnh rõ nhất bối cảnh và tác động của bất ổn định chính trị và khủng hoảng xã hội đến tăng trưởng và phát triển quốc gia. Cạnh tranh giữa các đảng chính trị, cuộc đấu tranh để giành độc lập của Đông Timor, sự tác động của tham nhũng đến hiệu quả của chính quyền nhà nước dẫn đến những khó khăn không nhỏ trong phục hồi và đạt được tăng trưởng kinh tế của quốc gia này trong suốt nhiều thập kỷ.

Điểm quan trọng nhất trong hành trình cải cách của Indonexia trong thập kỷ qua là thay đổi triết lý về hành chính công, chuyển sang thực hiện theo mô hình New Public Management (Quản trị công mới). Mô hình mới mà Chính phủ Indonexia đang hướng tới được hiện thực hóa thông qua các nỗ lực phi tập trung hóa, tư nhân hóa một số cơ quan cung ứng dịch vụ công và doanh nghiệp nhà nước, áp dụng tính phí sử dụng trong cung ứng dịch vụ công, hợp đồng ra bên ngoài, xây dựng chính phủ điện tử…Các nhà lãnh đạo, quản lý được yêu cầu áp dụng hoạch định chiến lược, quản lý tài chính và đo lường thực thi, chú trọng vào kết quả đầu ra hơn là sự tuân thủ các quy trình, thủ tục…

Đối với Malayxia, một quốc gia đa chủng tộc, một loạt chính sách kinh tế đã kế thừa và phát triển nhằm đạt được mục tiêu xóa nghèo đói, không phân biệt chủng tộc và tái cấu trúc để loại bỏ sự đồng nhất chức năng kinh tế với chủng tộc được áp dụng như Chương trình kinh tế mới (NEP), Chương trình phát triển quốc gia (NDP, với tầm nhìn là đến 2020 Malayxia sẽ tham gia nhóm các nước công nghiệp tiên tiến với tăng trưởng 7% hàng năm) và Mô hình kinh tế mới (NEM).Các nỗ lực cải cách chính phủ của Malayxia trong thập kỷ qua kiên trì với triết lý “một -chính -phủ” (whole of government), khái niệm được đưa ra trong Kế hoạch thứ 10 và Chiến lược Đại dương xanh của quốc gia này, cung cấp một khuôn khổ hướng các cơ quan chính quyền vì một nền hành chính có chung mục tiêu và các giải pháp có tính tích hợp để đáp ứng tốt hơn nhu cầu của công dân.

Có thể nói, về tổng thể phương châm, chủ thể và tiến trình cải cách của các nước ASEAN có những khác biệt cụ thể về cơ quan tổng quản quá trình cải cách, về mức độ quyết liệt trong cải cách, về cách thức giải quyết mối quan hệ giữa trung ương, địa phương, nhà nước- cộng đồng- doanh nghiệp. Tuy nhiên, các quá trình cải cách giữa các quốc gia trên đều có điểm chung là tiếp tục khẳng định vai trò của Chính phủ và thay đổi cách thức thực hiện vai trò của Chính phủ. Tuy nhiên, sâu xa hơn, công cuộc đổi mới chính phủ của các quốc gia đó, và phần nào của Việt Nam, như thực tiễn chỉ ra, phản ảnh sự dịch chuyển mô hình thực hiện vai trò của chính phủ (nói một cách đầy đủ là nhà nước).

Vậy những kinh nghiệm đó mang lại bài học gì cho Việt Nam trong việc thực hiện CCHC, thưa ông?

CCHC phải được coi như một quá trình mang tính “liên tục”, thực hiện CCHC với phương châm “từng bước một”, “học thông qua làm” và “tiếp cận bằng cách mò mẫm” là tương đối phù hợp đối với các tình huống và điều kiện kinh tế của Việt Nam. Các nội dung CCHC không nên quá tham vọng, năng lực của nền hành chính là quan trọng và cần thiết cho việc thực hiện CCHC. Đặc biệt, cam kết mạnh mẽ của các nhà lãnh đạo chính trị đóng một vai trò quyết định cho sự thành công của CCHC.

Trong quá trình CCHC tiếp theo, Việt Nam cần một tầm nhìn và cách tiếp cận hệ thống động. Để đương đầu với các vấn đề này và quản lý một cách chủ động và hiệu quả các thay đổi tiếp theo trong tương lai, Chính phủ và từng chính quyền địa phương cần huy động được trí tuệ, sự cam kết và nguồn lực của các bên liên quan. Điều này đòi hỏi các ngành, các địa phương phải có sự phối hợp đồng bộ, khắc phục sự thiếu hụt về nguồn lực, năng lực để giải quyết các vấn đề. Tính chất động trong tiếp cận hệ thống động đòi hỏi Chính phủ cần tính tới yếu tố “thời thế” của bối cảnh để thay đổi phương thức điều hành quốc gia theo cách “dĩ bất biến, ứng vạn biến”.

Bên cạnh đó, cần huy động tốt hơn các nguồn lực từ xã hội. Trong tính hệ thống của nó, hành chính công Việt Nam cần đảm bảo tính nhất quán, tính trọng tâm, trọng điểm, có ưu tiên và mang tính thích ứng  trong quá trình điều hành. Với hành chính công, lòng dân và tín nhiệm sẽ không chỉ quyết định sự thành bại của hành chính mà còn quyết định sự tồn vong của một dân tộc. Vì vậy, Chính phủ có thể  thí điểm mời các nhà kinh doanh thành đạt vào các vị trí hoạch định chính sách trong các bộ, ngành để “thay máu” phần nào tính quan liêu và khép kín của hệ thống hành chính và tận dụng tinh thần sáng tạo, đổi mới của họ; tổ chức luân chuyển cán bộ, công chức sang khu vực kinh doanh (tư nhân), đồng thời, luân chuyển lãnh đạo doanh nghiệp tư nhân sang làm việc các cơ quan hoạch định chính sách - có thời hạn, có giới hạn địa chỉ, có nguyên tắc chặt chẽ. Trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, cần bổ sung  nội dung phân tích chi phí- lợi ích của chính sách; làm rõ hơn, làm chặt hơn các chế tài bồi thường khi có sai phạm trong quản lý, điều hành, nhấn mạnh bồi hoàn vật chất, tài chính cho nhân dân và tổ chức (đây cũng là cách để tránh lạm quyền và chống tham nhũng).

Mặt khác, cần quản lý thực thi tốt và nâng cao trách nhiệm giải trình; điều chỉnh quy mô khu vực công, trong đó san sẻ trách nhiệm cung ứng sang khu vực tư nhân gắn với tăng cường năng lực cho khu vực tư nhân; đồng thời, cần duy trì động lực và nhiệt huyết làm việc.