10:05:51 | 1/4/2015
Những năm gần đây, tỉnh Hòa Bình đã thực hiện nhiều cơ chế, chính sách nhằm thu hút các dự án đầu tư vào địa bàn và đạt được một số kết quả song vẫn còn những vướng mắc, những điểm nghẽn trong môi trường đầu tư, kinh doanh trên địa bàn cần tiếp tục tháo gỡ - Ông Bùi Hải Quang, Giám đốc Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Hòa Bình chia sẻ với phóng viên Tạp chí Vietnam Business Forum. Duy Anh thực hiện.
Ông đánh giá thế nào về kết quả thu hút đầu tư của Hòa Bình trong những năm gần đây, những mặt “được” nổi bật và hạn chế cần tiếp tục khắc phục?
Tính đến ngày 31/12/2014, tỉnh Hòa Bình đã thu hút được 398 dự án đầu tư, trong đó 369 dự án đầu tư trong nước với vốn đăng ký 43.665 tỷ đồng và 29 dự án FDI với tổng vốn đăng ký đầu tư 463 triệu USD; có 154 dự án sản xuất công nghiệp, 90 dự án khai thác chế biến khoáng sản, 36 dự án du lịch - khách sạn, 28 dự án thương mại - dịch vụ, 46 dự án trồng rừng và phát triển nông nghiệp, 30 dự án bất động sản và 14 dự án lĩnh vực khác. Cụ thể như sau:
369 dự án đầu tư trong nước đã có 168 dự án đi vào sản xuất, kinh doanh, vốn đầu tư thực hiện 8.595 tỷ đồng, bằng 60,4% vốn đăng ký, giải quyết việc làm cho khoảng 7.600 lao động, giá trị sản xuất công nghiệp ước đạt 2.000 tỷ đồng, doanh thu thương mại dịch vụ tiêu dùng đạt 500 tỷ đồng, nộp ngân sách khoảng 140 tỷ đồng.
29 dự án FDI còn hiệu lực đã có 21 dự án đã đưa vào khai thác, sản xuất kinh doanh với tổng vốn thực hiện 238 triệu USD (bằng 51,4% vốn đăng ký); doanh thu năm 2014 ước đạt 75 triệu USD (trong đó xuất khẩu đạt khoảng 60 triệu USD), nộp ngân sách 100 tỷ đồng và giải quyết việc làm cho khoảng gần 10.000 người. Nhật Bản và Hàn Quốc hiện là hai quốc gia có số dự án đầu tư nhiều nhất (mỗi nước có 10 dự án), tiếp sau là các quốc gia khác như Trung Quốc, Singapore, Thái Lan, Slovakia, Hoa Kỳ, Ấn Độ và Indonesia. Tuy số lượng hạn chế nhưng các dự án FDI phần lớn được triển khai tại các khu công nghiệp, tiến độ đầu tư nhanh, thu hút nhiều lao động, đã góp phần quan trọng vào nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội của tỉnh.
Với tiềm năng, lợi thế cùng sự phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội, nhất là hạ tầng giao thông trong những năm gần đây, Hòa Bình đang ngày càng hấp dẫn hơn đối với các nhà đầu tư. Trong giai đoạn hiện nay, tỉnh Hòa Bình đang quan tâm thu hút, tập trung mời gọi vào những lĩnh vực, địa bàn, đối tác, dự án đầu tư cụ thể nào?
Hòa Bình là tỉnh có lợi thế nằm tiếp giáp với Thủ đô Hà Nội, có khả năng tiếp cận với các cảng biển (Hải Phòng, Cái Lân) và cảng hàng không (Nội Bài), khi tuyến đường Hòa Lạc - Hòa Bình và Quốc lộ 6 mở rộng đi vào khai thác thì Hòa Bình cũng có điều kiện thuận lợi để phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ, hỗ trợ, nông nghiệp, chế biến nông, lâm sản, thực phẩm, đầu tư phát triển du lịch,… Nhiệm vụ đặt ra là quán triệt thực hiện tốt Nghị quyết số 19/NQ-CP ngày 12/03/2015 của Chính phủ về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu tiếp tục cải thiện môi trường kinh doanh và nâng cao năng lực cạnh tranh Quốc gia hai năm 2015 - 2016;

Để tiếp tục đẩy mạnh thu hút đầu tư trong thời gian tới, theo ông, Hòa Bình cần tập trung vào những “nút thắt” hay “điểm nghẽn” nào?
Thứ nhất là: cần tập trung phân tích, đánh giá thực trạng và đề ra các giải pháp nhằm cải thiện tốt môi trường đầu tư, kinh doanh để nâng cao năng lực cạnh tranh của tỉnh mà trước hết là nâng cao chất lượng công vụ, làm tốt cơ chế phối hợp giữa các sở, ban, ngành và Ủy ban nhân dân các huyện, thành phố, xã, phường, thị trấn trong công tác quản lý, giám sát, hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, nhà đầu tư được tiếp cận các thủ tục sớm.
Thứ hai là: khai thác, sử dụng có hiệu quả nguồn lực từ ngân sách nhà nước, trái phiếu Chính phủ, hợp tác công tư để đầu tư cơ sở hạ tầng kinh tế, xã hội, tạo điều kiện thuận lợi cho công tác thu hút đầu tư. Gắn với việc tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền quảng bá môi trường đầu tư, cơ chế, chính sách của nhà nước, của tỉnh, các quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội, quy hoạch ngành, quy hoạch sản phẩm trên các phương tiện thông tin đại chúng để các doanh nghiệp, nhà đầu tư tiếp cận, tìm hiểu và định hướng sản xuất kinh doanh trên địa bàn tỉnh.
Thứ ba là: quán triệt, triển khai thực hiện có hiệu quả công tác đào tạo, công tác dạy nghề để có lực lượng lao động của địa phương có tay nghề, kỹ thuật, có kỷ luật lao động thích ứng với môi trường sản xuất kinh doanh công nghiệp để được tham gia làm việc trong các doanh nghiệp nhằm giải quyết việc làm, có thu nhập, tiếp cận với công nghệ tiến bộ trong quá trình sản xuất kinh doanh, tạo ra giá trị gia tăng cao, tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước.
Thứ tư là: Tập trung làm tốt công tác cải cách hành chính mà trọng tâm là cải cách thủ tục hành chính, cụ thể là rà soát các thủ tục về đầu tư, đất đai, xây dựng, đăng ký doanh nghiệp... nhằm rút ngắn thời gian, quy trình giải quyết các thủ tục hành chính cho doanh nghiệp và nhà đầu tư sớm tiếp cận với các thủ tục đầu tư, tiếp cận đất đai để triển khai lập dự án đầu tư sớm nhất. Tổ chức công khai các thủ tục, hồ sơ, thời gian, quy trình, người giải quyết các thủ tục hành chính tại trụ sở hoặc website điện tử của ngành và cổng thông tin điện tử để các doanh nghiệp, nhà đầu tư tiếp cận thực hiện.
Thứ năm là: Làm tốt công tác giao ban sản xuất để lắng nghe, tiếp xúc với doanh nghiệp, nhà đầu tư nhằm trao đổi thông tin giữa các cơ quan quản lý nhà nước với doanh nghiệp và nhà đầu tư; phân công, phân cấp, nâng cao trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước trong việc theo dõi, giúp đỡ, tháo gỡ khó khăn, tạo điều kiện cho doanh nghiệp, nhà đầu tư sớm tiếp cận các thủ tục có liên quan của dự án đầu tư, sản xuất kinh doanh để triển khai dự án đầu tư sản xuất kinh doanh với thời gian ngắn nhất.
Thứ sáu là: tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc triển khai thực hiện dự án đầu tư của các doanh nghiệp, nhà đầu tư đã đăng ký để có biện pháp tháo gỡ khó khăn, hỗ trợ doanh nghiệp, nhà đầu tư; đồng thời kiên quyết rà soát và đề nghị thu hồi Đăng ký doanh nghiệp, Giấy chứng nhận đầu tư của những doanh nghiệp, nhà đầu tư không triển khai hoặc triển khai chậm tiến độ theo đăng ký, những doanh nghiệp, nhà đầu tư không có năng lực về tài chính, năng lực quản trị doanh nghiệp.