10:46:22 | 7/5/2015
Từ một tỉnh thuần nông, 22 năm sau ngày chia tách, diện mạo Vĩnh Long đã có nhiều khởi sắc, cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực theo hướng tăng dần tỷ trọng công nghiệp – xây dựng và thương mại - dịch vụ. Trong xu thế phát triển và hội nhập, Vĩnh Long đang nỗ lực tái cơ cấu, nâng chất nền kinh tế với việc đa dạng hóa sản phẩm công nghiệp - dịch vụ, hiện đại hóa ngành nông nghiệp, hướng tới một nền kinh tế xanh nhằm gia tăng sức cạnh tranh của nền kinh tế, từng bước đưa Vĩnh Long trở thành địa phương nằm trong tốp khá của khu vực ĐBSCL. Tạp chí Vietnam Business Forum đã có cuộc phỏng vấn ông Trần Văn Rón, Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh Vĩnh Long. Công Luận thực hiện.
Xin ông chia sẻ cụ thể hơn về thành công của Vĩnh Long trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế?
Năm đầu tiên tách tỉnh, cơ cấu kinh tế Vĩnh Long có đến 68% là nông nghiệp; thương mại dịch vụ chỉ chiếm hơn 22,44% và công nghiệp – xây dựng chỉ 9,56%. Để thúc đẩy KT - XH địa phương phát triển, Vĩnh Long đã triển khai nhiều cơ chế, chính sách nhằm nâng dần tỷ trọng khu vực công nghiệp – xây dựng và thương mại –dịch vụ trong cơ cấu kinh tế của tỉnh.
Khu vực công nghiệp - xây dựng tuy có tỷ trọng thấp nhất nhưng cũng có sự cải thiện rõ rệt khi tăng từ 9,56% năm 1992 lên 21,18% năm 2014. Để phát triển công nghiệp, tỉnh tập trung củng cố phát triển những ngành nghề sản xuất truyền thống, sản xuất thủ công mỹ nghệ xuất khẩu nhằm khai thác hiệu quả nguồn nguyên liệu và nhân lực tại chỗ. Song song đó, tỉnh chú trọng phát triển các ngành thế mạnh chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu công nghiệp (công nghiệp chế biến lương thực - thực phẩm, công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng, công nghiệp hóa chất và dược liệu) nhằm thúc đẩy ngành công nghiệp phát triển và mở rộng quy mô toàn ngành.
Là khu vực kinh tế có tỷ trọng xếp thứ hai, tuy nhiên những năm gần đây lĩnh vực thương mại - dịch vụ đã có sự phát triển vượt bậc và thay thế vị trí dẫn đầu của khu vực nông, lâm, thủy sản với tỷ trọng trong năm 2014 là 44,06%, cao hơn 9,3% so với khu vực nông, lâm, thủy sản (34,76%).
Riêng nông nghiệp vẫn là thế mạnh của Vĩnh Long trong những năm qua. Tỷ trọng khu vực nông, lâm thủy sản tuy có giảm từ 68% năm 1992 xuống còn 34,76% năm 2014 nhưng vẫn duy trì mức tăng trưởng ổn định. Để nâng cao hiệu quả và duy trì tốc độ tăng trưởng của khu vực này một cách hợp lý, tỉnh huy động nhiều nguồn lực để đầu tư vào hạ tầng thủy lợi, nâng diện tích khép kín chủ động tưới tiêu, bảo vệ sản xuất nông nghiệp – thủy sản toàn tỉnh lên 107.518 ha. Tỉnh đẩy nhanh quá trình chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi; ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật; khuyến khích sản xuất nông sản theo tiêu chuẩn VietGAP, GlobalGAP; chuyển đổi diện tích đất trồng lúa năng suất thấp sang trồng cây ăn trái, hình thành các vùng sản xuất chuyên canh, nhân rộng mô hình cánh đồng mẫu lớn..nhằm đem lại hiệu quả kinh tế cao cho người nông dân.
.jpg)
Ông đánh giá thế nào về tình hình hoạt động của các doanh nghiệp (DN) trên địa bàn trong năm 2014 cũng như những tháng đầu năm 2015? Tỉnh Vĩnh Long có những cơ chế chính sách nào để hỗ trợ DN trên địa bàn ổn định, định phát triển sản xuất kinh doanh?
Trong năm, toàn tỉnh phát triển được 256 DN, 63 chi nhánh và văn phòng đại diện của các loại hình DN với tổng vốn đăng ký 849 tỷ đồng, góp phần giải quyết việc làm tại thời điểm đăng ký 3.174 lao động. Ngoài ra có 42 DN làm thủ tục đăng ký ngừng hoạt động (giảm 16 DN so năm 2013) và tỉnh đã làm thủ tục giải thể cho 74 DN với vốn đầu tư khoảng 260 tỷ đồng (so với năm 2013 tăng 40 DN).
Tuy điều kiện sản xuất kinh doanh của các DN chưa thật sự thuận lợi nhưng với tinh thần chủ động vượt khó, xây dựng phương án sản xuất kinh doanh hiệu quả của DN cộng với nỗ lực triển khai kịp thời các cơ chế, chính sách hỗ trợ tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, hỗ trợ thị trường, giải quyết nợ xấu của các cấp, ngành đã giúp doanh nghiệp giảm bớt khó khăn; nhiều doanh nghiệp duy trì và đẩy mạnh phát triển, mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh. Song song đó vẫn còn một số DN, chủ yếu là các DNNVV do hạn chế về nguồn lực tài chính, công nghệ sản xuất kinh doanh còn lạc hậu, chất lượng nguồn nhân lực chưa cao và đặc biệt chưa phương án sản xuất kinh doanh thật sự hiệu quả nên không thể tiếp tục duy trì các hoạt động sản xuất kinh doanh, phải tạm ngừng hoạt động hoặc làm thủ tục giải thể.
Nhằm hỗ trợ DN trên địa bàn ổn định phát triển sản xuất kinh doanh, UBND tỉnh đã chỉ đạo các ngành, các cấp quyết liệt triển khai thực hiện đồng bộ, hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp nhằm hỗ trợ các DN như: cải cách thủ tục hành chính; triển khai Đề án tổ chức lại ngành sản xuất gạch gốm và Đề án hỗ trợ kinh phí đầu tư máy móc, thiết bị vào quy trình sản xuất; tăng cường xúc tiến thương mại nội địa; kết nối DN với ngân hàng; hỗ trợ DN tiếp cận tín dụng; gia hạn, miễn, giảm thuế; giải quyết vướng mắc về đất đai, xây dựng,…
Ngoài ra, các Sở, ban ngành tỉnh, UBND cấp huyện cũng tích cực phối hợp nghiên cứu dự thảo những cơ chế, chính sách mới để áp dụng phù hợp với điều kiện của tỉnh, góp phần thúc đẩy phát triển sản xuất, thu hút đầu tư như: Đề án thu mua nông sản trên địa bàn tỉnh gắn với Đề án tái cơ cấu nông nghiệp; quy định về chính sách hỗ trợ, khuyến khích DN đầu tư vào khu vực nông thôn; quy định về chính sách hỗ trợ phát triển hợp tác xã…
Được biết hiện Vĩnh Long đã và đang tạo ra nhiều sản phẩm, dự án hướng tới nền kinh tế xanh. Đâu là những biện pháp tỉnh sẽ chủ động áp dụng nhằm tiếp tục đẩy mạnh phát triển kinh tế xanh, góp phần mang lại các lợi ích thiết thực cho tỉnh nhà trên 3 trụ cột kinh tế, xã hội và môi trường?
Để đẩy mạnh phát triển kinh tế xanh, tỉnh tập trung phát triển thị trường khoa học - công nghệ, hỗ trợ về tăng cường năng lực khoa học - công nghệ cho DN, giúp các DN đổi mới, đầu tư vào công nghệ để sản xuất các sản phẩm thân thiện với môi trường, nâng cao hiệu suất sử dụng tài nguyên, từng bước loại bỏ công nghệ và thiết bị lạc hậu. Tổ chức lại sản xuất nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá, thâm canh và gắn với điều kiện sinh thái. Hình thành các vùng chuyên canh, vùng nguyên liệu nông sản hàng hoá cho công nghiệp chế biến, xuất khẩu và tiêu dùng trong nước; nâng cấp và xây dựng mới các trung tâm giống cây trồng, vật nuôi, các mô hình nông nghiệp công nghệ cao, mô hình sản xuất sạch và an toàn...
Tỉnh cũng sẽ chủ động và tích cực thực hiện liên kết, hợp tác giữa các DN để nâng cao chất lượng sản phẩm, sức cạnh tranh trên thị trường. Tăng cường nghiên cứu, tiếp cận khoa học công nghệ, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, mở rộng liên doanh liên kết, xây dựng văn hóa kinh doanh, tham gia tích cực các hoạt động xã hội, góp phần phát triển KT - XH của tỉnh.
Quan trọng hơn, Vĩnh Long sẽ đẩy mạnh xây dựng văn hóa DN, tạo môi trường văn hóa lành mạnh, tích cực, chuyên nghiệp tạo động lực thúc đẩy sức sáng tạo và cạnh tranh của các DN. Chú trọng phát triển nguồn nhân lực DN đáp ứng được yêu cầu đổi mới công nghệ, quy trình sản xuất, kinh doanh, tham gia chuỗi kinh doanh toàn cầu với việc đa dạng hóa các sản phẩm chất lượng cao, dịch vụ chất lượng quốc tế. Tỉnh cũng sẽ tranh thủ sự quan tâm hỗ trợ đặc biệt của các tổ chức hợp tác quốc tế, các viện nghiên cứu, các nhà khoa học; đặc biệt là các DN hoạt động trong các lĩnh vực công nghiệp xanh để cùng nhau thảo luận và đề ra các giải pháp nhằm nắm bắt cơ hội và giảm thiểu các thách thức về phát triển công nghiệp xanh trong giai đoạn hiện nay.
Trong xu thế phát triển và hội nhập quốc tế, để tái cơ cấu và nâng chất nền kinh tế, hướng tới nâng cao năng lực cạnh tranh của tỉnh nhà, Vĩnh Long sẽ tập trung vào những trọng tâm nào? Riêng vấn đề huy động các nguồn lực cho đầu tư phát triển kinh tế cũng như bố trí các nguồn lực đầu tư phù hợp được chú trọng ra sao?
Để nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, đưa Vĩnh Long trở thành địa phương nằm trong tốp khá của khu vực ĐBSCL, trong giai đoạn tới tỉnh sẽ tập trung khai thác, phát huy tối đa thế mạnh tiềm năng của tỉnh, đẩy mạnh phát triển công nghiệp, dịch vụ dựa trên nền nông nghiệp. Theo đó tỉnh sẽ thực hiện tốt đề án tái cơ cấu ngành Công Thương và đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp, trọng tâm là lựa chọn, bổ sung, nâng cao năng suất chất lượng cây trồng và vật nuôi; đẩy mạnh phát triển công nghiệp chế biến nông sản, thực phẩm có giá trị gia tăng cao phục vụ thị trường trong nước và xuất khẩu.
Song song với nỗ lực nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, phát triển nguồn nhân lực theo nhu cầu xã hội, tỉnh tiếp tục đầu tư hoàn thiện và đồng bộ hóa hệ thống kết cấu hạ tầng. Trong đó chú trọng đầu tư, nâng cấp mở rộng hệ thống giao thông thuộc các tuyến quốc lộ, các đường tỉnh; nâng cấp và phát triển hạ tầng đô thị theo hướng đồng bộ, hiện đại; phát triển hạ tầng công nghệ thông tin đảm bảo hỗ trợ chương trình cải cách hành chính….
Riêng về vấn đề huy động các nguồn lực cho đầu tư phát triển kinh tế, hiện tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội năm 2014 của tỉnh đạt 10.806 tỷ đồng, chiếm 29,17% GRDP toàn tỉnh. Trong đó, tỷ trọng vốn đầu tư của khu vực ngoài nhà nước chiếm đến 72,88% và đóng góp rất lớn cho tăng trưởng kinh tế của tỉnh, kế đến là khu vực kinh tế nhà nước 24,83% và khu vực FDI chỉ chiếm 2,28%. Xác định vốn đầu tư là yếu tố trực tiếp quyết định tốc độ tăng trưởng kinh tế, đồng thời cũng là một trong những yếu tố liên quan đến chất lượng tăng trưởng và ổn định kinh tế vĩ mô nên trong giai đoạn 2016-2020, tỉnh sẽ đẩy mạnh thu hút các nguồn vốn đầu tư của các thành phần kinh tế trong và ngoài nước, phấn đấu huy động tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội đạt 89.000 tỷ đồng.
từ ngày 18 – 19/12/2025
VCCI
từ 11/11/2025 đến 30/11/2025
VCCI