14:26:23 | 13/5/2015
Khái niệm sở hữu chéo chưa rõ ràng
Tại hội thảo, vấn đề được các đại biểu góp ý sôi nổi nhất là vấn đề sở hữu chéo. Ông Vũ Phương Đông- Giảng viên Khoa Pháp luật Kinh tế - Đại học Luật Hà Nội cho rằng, Điều 3 của Dự thảo đã cụ thể một số nội dung về hạn chế sở hữu chéo giữa các công ty được quy định tại Điều 189 Luật Doanh nghiệp 2014. Tuy nhiên, theo ông, một số nội dung được quy định tại Điều 3 chưa rõ ràng. Cụ thể, Khoản 1 Điều 3 quy định: “Công ty con theo quy định tại khoản 2 Điều 189 Luật doanh nghiệp là công ty đối với công ty mẹ trong các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 189 Luật doanh nghiệp.” Khoản 3 Điều 3 quy định về khái niệm sở hữu chéo: “Sở hữu chéo là việc đồng thời hai hoặc nhiều doanh nghiệp có sở hữu phần vốn góp, cổ phần của nhau.”. Theo ông Đông, các quy định như trên chung chung, tối nghĩa, không cụ thể vấn đề. Ông Đông kiến nghị, dự thảo cần quy định cụ thể sở hữu chéo trực tiếp của hai doanh nghiệp, sở hữu chéo gián tiếp của nhiều doanh nghiệp. Sở hữu chéo trực tiếp là hình thức công ty A sở hữu cổ phần, phần vốn góp của công ty B và ngược lại. Sở hữu chéo gián tiếp của nhiều doanh nghiệp là hình thức công ty A sở hữu cổ phần, phần vốn góp của công ty B, công ty B sở hữu cổ phần, phần vốn góp của công ty C, công ty C lại sở hữu cổ phần, phần vốn góp của công ty A.
.jpg)
|
Luật Doanh nghiệp 2014 và Luật đầu tư 2014 chính thức có hiệu lực từ 1/7/2015 với rất nhiều thay đổi liên quan trực tiếp đến doanh nghiệp và các nhà đầu tư. |
Đồng ý kiến, Luật sư Bùi Thanh Lam - Ngân hàng Liên Việt thuộc Đoàn Luật sư Hà Nội cho rằng: Quy định như tại Dự thảo (khoản 3 Điều 3) mới chỉ dừng lại việc chống sở hữu chéo vốn chủ sở hữu (phần vốn góp/cổ phần) của nhau, thực tế thì không đơn giản như vậy. “Quy định như trong Dự thảo mới chỉ tính đến sở hữu trực tiếp, thế còn sở hữu gián tiếp có tính không? Có cần quy định khống chế/hạn chế không? Đây là những vấn đề thực chất của sở hữu chéo và cần phải có quy định để hạn chế nó, như vậy tên Điều khoản là “hạn chế sở hữu chéo giữa các Công ty” mới đi vào bản chất” – Luật sư Bùi Thanh Lam nói.
Ông Lam lấy dẫn chứng về các trường hợp về sở hữu gián tiếp. Cụ thể, Trường hợp 1: Công ty A (mẹ) góp vốn hoặc mua cổ phần trên 50% vào Công ty A’ (công ty con), Công ty A thông qua việc đầu tư vào các Quỹ đầu tư để Quỹ mua cổ phần hoặc góp vốn của Công ty A'. Trường hợp này có bị tính là sở hữu chéo không và Dự thảo cần quy định thêm để hạn chế. Trường hợp 2: Công ty A (công ty mẹ) góp vốn hoặc mua cổ phần trên 50% vào Công ty A’ (Công ty con), Công ty Á ủy thác đầu tư cho Công ty Quản lý quỹ để đầu tư vào các cổ phiếu niêm yết/OTC trên thị trường (trong đó có cổ phiếu của Công ty A). Lúc này, được hạch toán coi như hoạt động kinh doanh, đầu tư chứng khoán thông thường. Vậy có bị tính là sở hữu chéo không và giao dịch có bị vô hiệu?...
Cũng góp ý cho Điều 3 hướng dẫn về sở hữu chéo trong nhóm công ty, Luật sư Trần Đăng - Trưởng phòng Thủ tục pháp lý, Tập đoàn Vingroup đề nghị bổ sung: Các doanh nghiệp không có cổ phần hoặc phần vốn góp do Nhà nước sở hữu 100% thực hiện góp vốn, mua cổ phần trước ngày 1/7/2015 không phải thực hiện quy định tại khoản 2 điều 189 Luật Doanh nghiệp. Các doanh nghiệp này có quyền tái cấu trúc theo nhu cầu của doanh nghiệp song không được tăng tỷ lệ sở hữu chéo.
Con dấu nào có giá trị pháp lý?
Góp ý tại hội thảo, bà Nguyễn Bích Ngọc - Công ty Luật Allens cho biết, Điều 34 quy định: trước khi sử dụng con dấu, doanh nghiệp phải thông báo mẫu dấu cho cơ quan đăng ký kinh doanh. Tuy nhiên, trong trường hợp có thay đổi mẫu dấu, doanh nghiệp không cần thông báo thay đổi trước khi sử dụng con dấu mới mà nghĩa vụ thông báo lại được thực hiện trong vòng 10 ngày sau khi có con dấu. “Như vậy, trong khoảng thời gian 10 ngày này, con dấu mới hay con dấu cũ sẽ có giá trị pháp lý?” – bà Ngọc thắc mắc.
Để làm rõ cho vấn đề này, bà Ngọc kiến nghị: "Chúng tôi kiến nghị trong trường hợp thay đổi mẫu dấu, doanh nghiệp cũng cần thực hiện nghĩa vụ thông báo trước khi được sử dụng con dấu mới để phù hợp với cách tiếp cận khi thông báo sử dụng con dấu lần đầu tiên. Nếu không, trong khoảng thời gian doanh nghiệp có con dấu mới nhưng chưa thực hiện thông báo và đăng tải lên Cổng Thông tin Quốc gia về Đăng ký Doanh nghiệp, bên thứ ba không thể xác định được việc doanh nghiệp đã có con dấu mới và liệu con dấu cũ khi đó còn giá trị pháp lý hay không".
Góp ý ở khía cạnh khác, Luật sư Trần Đăng - Trưởng phòng Thủ tục pháp lý, Tập đoàn Vingroup cho biết, Điều 21 khoản 1 quy định Chủ doanh nghiệp tư nhân, chủ sở hữu, hội đồng thành viên, Đại hội đồng cổ đông quyết định số lượng, nội dung, hình thức con dấu, hủy hoặc thay đổi mẫu dấu; quyết định việc quản lý, sử dụng con dấu. Tuy nhiên, điều 135 Luật Doanh nghiệp 2014 lại quy định, Đại hội đồng cổ đông không có thẩm quyền về việc quyết định con dấu. Do vậy, ông Đăng kiến nghị nên bỏ cụm từ “Đại hội đồng cổ đông”, thay bằng “Hội đồng quản trị” quyết định về con dấu.
"Tinh thần của Luật doanh nghiệp mới là tạo thuận lợi thủ tục hơn nữa cho doanh nghiệp. Về thực tế, việc thay đổi con dấu là công việc mang tính sự vụ, để hội đồng quản trị quyết định về con dấu mới tạo được sự chủ động linh hoạt, đặc biệt đối với các công ty cổ phần niêm yết, đại chúng quy mô lớn hàng chục nghìn cổ đông mà nếu mỗi lần làm con dấu, thay đổi con dấu phải họp Đại hội đồng cổ đông thì sẽ rất phiền hà, tốn kém cho doanh nghiệp" - ông Đăng nhấn mạnh.
|
Theo bà Nguyễn Bích Ngọc - Công ty Luật Allens, Điều 23.1 của Luật Đầu tư 2014 và Điều 4.27 của Luật Doanh nghiệp 2014 có nhiều mâu thuẫn. Theo Điều 23.1 của Luật Đầu tư 2014, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có 51% vốn điều lệ do nhà đầu tư nước ngoài nắm giữ (bao gồm cả các doanh nghiệp được liệt kê tại các mục (a), (b) và (c) tại Điều 23.1), sẽ bị áp dụng các điều kiện đầu tư áp dụng cho nhà đầu tư nước ngoài; Tuy nhiên, Điều 4.27 của Luật Doanh nghiệp 2014 quy định rằng tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài là tổng sở hữu vốn có quyền biểu quyết của tất cả các nhà đầu tư nước ngoài trong một doanh nghiệp Việt Nam. Định nghĩa này sau đó không được sử dụng trong bất kỳ điều khoản nào khác của Luật Doanh nghiệp 2014. Theo đó, không rõ là một công ty cổ phần được thành lập tại Việt Nam có được coi là nhà đầu tư nước ngoài không nếu công ty đó có cả cổ phần phổ thông và cổ phần ưu đãi cổ tức và nhà đầu tư nước ngoài nắm giữ 51% tổng số cổ phần phổ thông (có quyền biểu quyết) trong công ty nhưng lại nắm giữ ít hơn 51% vốn điều lệ của công ty đó. Đây là một vấn đề quan trọng sẽ ảnh hưởng đến việc cơ cấu các giao dịch M&A tại Việt Nam và nên được làm rõ trong các văn bản hướng dẫn thi hành. |
Hồ Hường (DĐDN)
từ ngày 18 – 19/12/2025
VCCI