Giải quyết nợ xấu và ngân hàng yếu kém

09:53:23 | 18/1/2016

Tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong năm 2016 có thể vượt Trung Quốc, song sức khỏe của hệ thống tài chính, nhiệm vụ tái cơ cấu ngành ngân hàng vẫn còn nhiều điểm bất cập chưa được như kỳ vọng, trong khi các hiệp định thương mại tự do (FTA), hay TPP thật sự chưa có tác động lớn đến nền kinh tế trong một vài năm tới. Đó là những nhận định của TS. Nguyễn Xuân Thành, Giám đốc Chương trình giảng dạy kinh tế Fullbright về bức tranh kinh tế 2016. Anh Phương thực hiện.

Ông có quan điểm thế nào về đề án tái cơ cấu kinh tế theo tinh thần Nghị quyết 11 của Chính phủ?

Theo tôi, thời điểm cuối năm 2015 này đã đánh dấu 4 năm kể từ khi Hội nghị lần 3 của Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa 11 quyết định tái cơ cấu nền kinh tế trên ba lĩnh vực là đầu tư (trọng tâm là đầu tư công), doanh nghiệp (trọng tâm là DNNN) và hệ thống tài chính (trọng tâm là NHNN) vào tháng 10/2011. Nhìn chung, chính sách điều hành kinh tế vĩ mô của Việt Nam đã đi đúng hướng điều này giúp Chính phủ điều hành tốt hoạt động các bộ ngành. Tuy nhiên, tôi nhấn mạnh rằng, những thay đổi chính sách để ổn định kinh tế vĩ mô trong giai đoạn này là một sự hỗn hợp giữa nhóm chính sách theo hướng thị trường và mệnh lệnh hành chính. Chúng ta cần nhìn nhận xác đáng và khách quan tính hiệu quả của hai nhóm chính sách trên. Theo nhận định của riêng tôi, thành quả ổn định kinh tế vĩ mô đạt được là nhờ việc nhất quán thực hiện các chính sách theo hướng thị trường chứ không phải các mệnh lệnh hành chính.


Là chuyên gia có mối quan tâm đến thị trường tài chính, ông đánh giá thế nào về sức khỏe của ngành này?

Một trong ba trọng tâm của tái cơ cấu nền kinh tế là tái cơ cấu hệ thống tài chính. Về điểm này, mặc dù Ngân hàng Nhà nước cùng nhiều cơ quan hữu quan đã có những nỗ lực lớn tuy nhiên, vẫn còn một số câu chuyện đáng bàn trong việc tái cơ cấu  “nguồn tiền” của đất nước. Cụ thể, về mặt chính sách đề án tái cơ cấu hệ thống các tổ chức tín dụng theo Quyết định 254 là để tạo khả năng linh hoạt tối đa cho Ngân hàng Nhà nước về mặt hoạch định chính sách cũng như điều hành tùy theo tình hình cụ thể, thay vì đưa ra những định hướng chính sách mang tính chiến lược. Đề án đặt mục tiêu đảm bảo an toàn hệ thống trước mắt, xử lý nợ xấu và tái cơ cấu ngân hàng thương mại trong trung hạn và đảm bảo sự vững mạnh của hệ thống trong dài hạn.

Tuy nhiên, một trong những cách quản lý đó lại chưa được làm triệt để. Theo đó, về việc ban hành các thông tư đảm bảo hoạt động an toàn cho các tổ chức tín dụng, mặc dù có xu hướng an toàn về vốn, giới hạn cấp tín dụng, giới hạn đầu tư, tỷ lệ chi trả, phân loại tài sản, trích lập dự phòng rủi ro ở mức độ chặt chẽ hơn, nhưng việc thực hiện không nhất quán và đã tạo ra nhiều ngoại lệ. Chỉ đến khi có Thông tư 36/2014/TT-NHNN ngày 20/11/2014 của NHNN (có hiệu lực từ 1/2/2015), thì mới thể hiện tính hợp nhất và hợp nhất và nhất quán trong việc thiết lập khung pháp lý đảm bảo an toàn cho hệ thống ngân hàng.

Riêng về đề án cải tổ 9 ngân hàng yếu kém được xác định, công khai vào đầu năm 2012 và bắt buộc phải tái cơ cấu trong năm 2012. Đến cuối năm 2013, Ngân hàng Nhà nước báo cáo Quốc hội khẳng định đã tái cơ cấu được 8/9 ngân hàng. Đến năm 2015, nhà nước bắt buộc mua 3 ngân hàng với giá 0 đồng, 2 trong số đó là các ngân hàng yếu kém đã được xác định từ đầu. Đơn cử như trường hợp Ngân hàng Xây dựng trước đó là Ngân hàng Đại Tín, thì thua lỗ, nợ xấu đến năm 2015 lớn hơn rất nhiều so với thời điểm năm 2011. Từ kết quả trên cho thấy việc tái cơ cấu các ngân hàng yếu kém hoạt động thiếu hiệu quả của Ngân hàng nhà nước còn tồn tại khá nhiều lỗ hổng.

Một vấn đề khác, là nếu không đứng trong đội ngũ những ngân hàng yếu kém thì phần nhiều các ngân hàng tầm trung lại dính vào các phi vụ như hoạt động sở hữu chéo, đầu tư chéo vượt giới hạn về cấp tín dụng và đầu tư theo quy định, hoạt động thâu tóm vượt giới hạn về sở hữu cổ phần vẫn diễn ra trong suốt thời kỳ 2011-2014. Chỉ đến năm 2015 bằng những chỉ thị cứng rắn của Ngân hàng Nhà nước, các tình trạng “bung vốn” đầu tư ngoài ngành, hay sở hữu chéo của hệ thống ngân hàng mới phần nào được giải quyết.

Riêng về vấn đề xử lý nợ xấu, tỷ lệ nợ xấu đã được đưa về mức 2,9% vào Quý 3/2015 là nhờ mô hình VAMC. Hơn 225 nghìn tỷ đồng nợ xấu đã được chuyển cho VAMC trong đó thực chất tổ chức tín dụng này mới chỉ xử lý được hơn 16 nghìn tỷ đồng. Nếu cộng ngược lại trở lại số nợ xấu đã bán nhưng chưa xử lý nợ thì tỷ lệ nợ xấu vẫn là 7,6%.

Do đó, theo cách phân tích trên, hệ thống tài chính Việt Nam vẫn phải chạy đua để giải quyết hai tồn tại dai dẳng là nợ xấu và một số ngân hàng yếu kém cần phải được dứt khoát thanh lọc.

Ông có đánh giá gì về kết quả tái cơ cấu hệ thống DNNN nước trong giai đoạn vừa qua?

Mặc dù đã rất cố gắng song so với mục tiêu đặt ra chúng ta mới chỉ đạt 90% trong tổng số 514 DNNN được cổ phần hóa trong giai đoạn 2011-2015.

Vấn đề đầu tư ngoài ngành tràn lan kém hiệu quả của các “ông lớn” này xem như vẫn chưa có lời giải. Cụ thể, trong số các DNNN nắm quyền kiểm soát, kết quả thoái vốn ngoài ngành để tập chung vào lĩnh vực kinh doanh nòng cốt vẫn còn rất khiêm tốn (4.460 tỷ đồng được thoái vốn khỏi lĩnh vực tài chính, kinh doanh bất động sản, trong đó có chính thức 16.193 tỷ đồng chính thức đầu tư vào chứng khoán, quỹ đầu tư, bảo hiểm, ngân hàng và bất động sản tính đến tháng 10/2014).

Nhà nước mặc dù cam kết phân chia quyền lực, tạo cân bằng cho mọi thành phần kinh tế. Song trên thực tế đầu tư tư nhân vẫn bị chèn ép, doanh nghiệp dân doanh vẫn bị chèn ép khi cạnh tranh với các doanh nghiệp quốc doanh. Trong khi đó, về quản trị nội bộ chung của hệ thống DNNN, và cơ chế giám sát của nhà nước đối với bộ phân này vẫn chậm được đổi mới. Chính điều này phần nào triệt tiêu các cơ hội đầu tư của các thành phần kinh tế khác, nguồn vốn đầu tư lớn từ ngân sách Trung ương sử dụng chưa hiệu quả, hợp lý…

Nhận định về các xu hướng mới kinh tế như đã ký kết và hoàn thành các Hiệp định thương mại quan trọng như các FTA, TPP, ông có góc nhìn ra sao về vấn đề này?

Theo tôi, các Hiệp định thương mại tự do Việt Nam vừa ký kết thành công như: TPP, Hiệp định thương mại tự do VN - EU, Cộng đồng kinh tế Asean... đều là những điểm cộng rất đáng quý cho nền kinh tế để có thể thu hút tốt hơn các cơ hội làm ăn, mở cửa thị trường, kêu gọi các nguồn vốn đầu tư trực tiếp và gián tiếp từ nước ngoài vào Việt Nam. Song tôi cũng lưu ý rằng, chỉ có một số ngành sẽ chịu ảnh hưởng trực tiếp từ các hiệp định thương mại lịch sử như TPP, AEC… Do đó, cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam cũng không nên quá lo lắng là phải ngay lập tức phải lột xác để theo kịp TPP. Vì vẫn còn một khoảng cách thời gian đủ để các doanh nghiệp hoàn thiện. Như riêng đối với Hiệp định TPP đến năm 2018 mới là thời điểm các cam kết của Việt Nam với các nước đối tác được thực thi hoàn toàn.


Có quá lạc quan không nếu cho rằng, trong năm 2016 nền kinh tế Việt Nam sẽ vượt Trung Quốc, thưa ông?


Hiện tại, có nhiều cơ sở để cho biết trong năm 2016, Việt Nam sẽ là một trong số ít nước có nền kinh tế tăng trưởng cao nhất khu vực Đông Nam Á và Đông Á. Theo đó, với tốc độ tăng trưởng 6,68% trong năm 2015, Việt Nam đã gần đạt mức tăng trưởng của Trung Quốc. Trong khi đó, các dự báo của chuyên gia kinh tế đều cho thấy tốc độ tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc tiếp tục suy giảm thời gian tới vì những khó khăn về cơ cấu, các vấn đề về bùng nổ tín dụng, bất động sản, nợ của chính quyền địa phương... Chính vì vậy, mức độ tăng trưởng của nền kinh tế Trung Quốc trong 2016 được dự báo sẽ không còn đạt ở mức 6,4%. Và một số nền kinh tế lệ thuộc Trung Quốc trong khu vực cũng sẽ bị ảnh hưởng tăng trưởng chậm lại.


Chính điều này cho thấy, nếu trong năm 2016, Việt Nam có thể tiếp tục giữ vững được mức độ ổn định kinh tế vĩ mô với tốc độ tăng trưởng GDP đạt 6,8-7%. Trong khi đó, các dự báo đều cho thấy tốc độ tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc tiếp tục suy giảm thời gian tới vì những khó khăn về cơ cấu, các vấn đề về bùng nổ tín dụng, bất động sản, nợ của chính quyền địa phương...


Do đó, tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc trong năm 2016 dự báo còn 6,4%, nhiều nước trong khu vực sẽ bị ảnh hưởng bởi tốc độ tăng trưởng chậm lại của Trung Quốc. VN có điểm thuận lợi hơn khi hàng loạt hiệp định thương mại tự do với các quốc gia và khu vực sắp có hiệu lực là những tiền đề rất tốt để phát triển kinh tế nếu chúng ta biết cách tận dụng.


Năm 2016, nếu VN tiếp tục ổn định được kinh tế vĩ mô thì tốc độ tăng trưởng GDP có thể đạt 6,8-7%. Như vậy lần đầu tiên kể từ khi đổi mới đến nay, tốc độ tăng trưởng kinh tế của VN có thể sẽ vượt qua Trung Quốc./.