10:49:38 | 26/1/2016
Kinh tế năm 2016 giữ đà tăng trưởng cao tiếp nối từ 2015, lạm phát vẫn giữ ở mức thấp. Quá trình hội nhập sâu rộng vào kinh tế thế giới đem lại nhiều cơ hội lớn, mà nếu doanh nghiệp không tận dụng được, cơ hội đang dần đi qua. Phóng viên Tạp chí Vietnam Business Forum có cuộc phỏng vấn ông Nguyễn Đức Kiên, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội về chủ đề này. Minh Châu thực hiện.
Tiến sĩ Nguyễn Đức Kiên đánh giá, chính sách vĩ mô từ lúc ban hành cho đến lúc tác động vào nền kinh tế cần có thời gian. Nếu như không có những yếu tố mang tính đột phá, thì đà phát triển năm 2016 cũng sẽ giữ tương đương năm 2015, nền kinh tế giao động quanh con số 6,7% tăng trưởng. Tốc độ tăng trưởng cao, nhưng trên một nền lạm phát thấp như hiện nay, doanh nghiệp vẫn gặp khó khăn, bởi vì lạm phát thấp thì động lực đầu tư, động lực để doanh nghiệp mở rộng sản xuất kinh doanh giảm đi.
Ý nghĩa của nội lực trong tăng trưởng
Nhiều nhận định lạc quan dành cho kinh tế Việt Nam năm 2016. Năm 2015, tăng trưởng GDP đạt mức 6,68%, nhưng cộng đồng DN vẫn tiếp tục gặp khó khăn và đời sống người dân ít được cải thiện. Với năm 2016, những khó khăn này có giảm bớt không, thưa ông?
Kinh tế vĩ mô ổn định, tốc độ tăng trưởng GDP cao, nhưng có những câu hỏi mà chúng ta chưa có câu trả lời thỏa đáng. Ví dụ như tại sao kinh tế tăng trưởng nhanh, cao lạm phát thấp nhưng nguồn thu ngân sách khó khăn? Tại sao khả năng huy động vốn đầu tư của doanh nghiệp để mở rộng sản xuất vẫn khó, đời sống người dân thực sự là ít được cải thiện. Tại sao lại có những nghịch lý như vậy?

Ở đây chúng ta phải thấy 1 điều là là bản chất của nền kinh tế Việt Nam từ 2011 đến giờ không thay đổi và một nền kinh tế vẫn tăng trưởng nhờ vốn đầu tư.
Bội chi 2015 chắc chắn cao hơn 5% cộng thêm lạm phát khoảng 0,65% mà tăng trưởng đạt 6.68%. Trong 3 trụ cột của tăng trưởng thì nông nghiệp có xu hưởng giảm, tốc độ tăng trưởng của thương mại dịch vụ chỉ tương đương tăng trưởng GDP, như vậy chỉ còn khối xây dựng và công nghiệp có mức tăng cao 9,8%. Phân tích sâu hơn, trong tỷ trọng tăng trưởng trong khối công nghiệp, xây dựng, tăng trưởng do xây dựng bao gồm cả xây dựng hạ tầng giao thông, xây dựng nhà ở, bất động sản cao hơn chiếm tỷ trọng cao hơn, khoảng 2/3. Còn lại tăng trưởng công nghiệp chỉ khoảng 1/3. Những số liệu này cho thấy kinh tế Việt Nam vẫn dùng đầu tư để tạo ra tăng trưởng. Với gần 6 đồng bao gồm bội chi ngân sách là tiền đi vay, cộng thêm lạm phát là sự mất giá của đồng tiền, kinh tế mới tăng được 6,68 đồng. Trừ số vay cái chúng ta làm ra thực ra tăng có mỗi 1 đồng.
Đây là lý do người dân không cảm nhận được đời sống khấm khá lên. Lương chưa tăng, chi phí viện phí học phí, có tăng không? Trẻ em đi học có đóng thêm không? Giá lương thực thực phẩm, giá thịt có hạ không? Con số tăng trưởng kinh tế tuyệt đối có, nhưng điều đáng tiếc là không tăng tự hiệu quả, không phải từ tự thân nền kinh tế sinh ra mà từ đi vay là chủ yếu.
Chúng ta nói nhiều đến yêu cầu chuyển đổi mô hình tăng trưởng, làm sao để nền kinh tế tăng trưởng bằng nội lực thay vì dựa quá nhiều vào vốn vay, thưa ông?
Mô hình tăng trưởng hiện nay không tạo ra được tăng trưởng từ nội tại của nền kinh tế, từ năng suất lao động, mà tăng chỉ nhờ đầu tư, cắt đầu tư đi thì hạ tăng trưởng. Từ 2011 đến nay, Việt Nam đã đề ra chuyển mô hình tăng trưởng của nền kinh tế từ chiều rộng sang chiều sâu, song kết quả còn hạn chế.
Một số ý kiến đề cập đến việc nền kinh tế đang cạn kiệt động lực tăng trưởng. Ông có đồng ý với nhận định này?
Có thể nói nguồn lực luôn không thiếu nhưng thiếu động lực. Doanh nghiệp cảm thấy đầu tư không yên tâm. Khó khăn đến từ bối cảnh kinh tế quốc tế tăng trưởng thấp, nhiều bất ổn chính trị, nhưng bản thân cơ chế chính sách trong nước cũng không tạo cho doanh nhân có niềm tin vào việc đầu tư.
Ở đây cần phải nói rằng động lực tăng trưởng có từ cả hai phía, từ doanh nghiệp và từ cơ quan quản lý nhà nước. Đừng chỉ đổ lỗi cho cơ chế, chính sách, về phía doanh nghiệp, doanh nhân vẫn chưa thoát ra khỏi tư duy kinh tế kế hoạch hóa, đó không phải là tư duy của một nền kinh tế thị trường. Ví dụ đơn giản cho chuyện này là tình trạng đầu tư khởi nghiệp gần như 100% dựa vào vốn vay ngân hàng, trong khi đó trên thế giới, ngân hàng chỉ là 1 kênh và là giải pháp cuối cùng trong đầu tư phát triển, thì mình lại dựa hoàn toàn vào vốn vay NH để đầu tư.
Thị trường vốn chưa phát triển, nền kinh tế có xuất phát điểm thấp, doanh nghiệp đa phần quy mô nhỏ bé, nên khó trách doanh nghiệp chỉ trông chờ vào vốn ngân hàng?
Tiên trách kỷ hậu trách nhân, các DN khác ở các nước khác ở thời kỳ đầu phát triển họ cũng ngồi đợi NH à? Bản thân nhiều doanh nghiệp quen ỷ lại, trong nền kinh tế thị trường ý tưởng kinh doanh cũng bán ra tiền. Khi có ý tưởng, phải thuyết phục được những người bạn của mình, gia đình mình cùng góp vốn thành lập công ty. Doanh nghiệp phải dùng nguồn lực tự thân, 3 cây chụm lại nên hòn núi cao, tự mình phải giải quyết được vấn đề đầu tư, sau khi đầu tư rồi, đem tài sản thế chấp vào ngân hàng để vay vốn lưu động ngắn hạn. Vốn lưu động mới là vốn vay ngân hàng, còn vốn đầu tư là phải của bản thân doanh nghiệp. Giờ thì 100% từ vốn, đầu tư đến vốn lưu động cũng là của ngân hàng.
Đấy là chưa kể tư duy lấy tiền của nhà nước đi kinh doanh một cách thoải mái.
Cơ hội đã có và đang đi qua
Trong khi doanh nghiệp trong nước vẫn tiếp tục khó khăn, thì thu hút đầu tư nước ngoài vẫn lớn, tức là khả năng tìm kiếm lợi nhuận ở Việt Nam vẫn cao. Xin ông cho biết ý kiến về vấn đề này?
Phải nói rằng hiệu quả suất đầu tư ở thị trường Việt Nam vẫn cao, là một trong những thị trường mang lại lợi nhuận cao ở châu Á, đó là ý kiến đánh giá của các nhà đầu tư Hàn Quốc, Đài Loan, Nhật, chưa kể các nhà đầu tư Trung Quốc. Về đầu tư dài hạn, các nhà đầu tư Singapore đánh giá lợi nhuận đầu tư ở Việt Nam ở mức ổn định.
Nếu doanh nghiệp nói rằng thiếu cơ hội, tại sao 2015 nguồn vốn đầu tư nước ngoài vào lớn đến như thế? Người ta còn đang tính đến một làm sóng FDI thứ hai sau năm 2007, các nhà đầu tư nước ngoài không dại đâu.
Vấn đề không phải có cơ hội không mà là cơ hội sắp mất đi, sắp hết rồi. Nếu từ bây giờ đến 2018 mà các doanh nghiệp không làm thì đã bỏ qua cơ hội cuối cùng để Việt Nam bứt phá!
Ông đánh giá khả năng Việt Nam nắm bắt được cơ hội này như thế nào?
Cộng đồng kinh tế ASEAN đã hình thành từ 1/1/2016, nhưng bao nhiêu % DN hiểu động đồng kinh tế ASEAN? Hiểu và tự nghĩ ra được để thời điểm đã đến rồi, khi mình là một cộng đồng, cái gì nó đánh vào lưng mình, cái gì đánh vào mặt mình?
Vấn đề là bây giờ các doanh nghiệp phải ngồi trả lời được câu hỏi, với thể chế như thế này, hiện nay thì doanh nghiệp khả năng đầu tư là bao nhiêu, nếu cải cách cái A thì tỷ lệ đầu tư tăng lên bao nhiêu. Thử hỏi với hiệp định TPP còn cái lợi nhuận nào mà chính phủ không đi đàm phán về cho doanh nghiệp?
Chúng ta có nền kinh tế thị trường, Doanh nghiệp và các tổ chức hiệp hội phải là những người nắm bắt cơ hội. Phải chỉ ra được Chính phủ phải sửa ngay cái thuế này để tháo gỡ khó khăn. Khi ông nói mà chúng tôi không sửa thì lỗi tại Chính phủ.
Tôi biết một doanh nghiệp có doanh số tới 600 tỷ/năm, hỏi TPP đọc chưa? Trả lời rằng bận thế này lấy đâu thời gian đọc, ông có bản tóm tắt không cho tôi? Tôi in cho bản tóm tắt và 1 tháng sau hỏi đọc chưa, vẫn bảo: Giời ơi, ông rỗi đi ăn cơm rồi nói cho chúng tôi biết nó tác động đến chúng tôi như thế nào? Thế thì tôi đi làm doanh nghiệp cho xong. Tôi có điều hành hàng ngày đâu mà biết là doanh nghiệp bị ảnh hưởng bởi cái gì ?
Việt Nam có nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, nguồn lực rất lớn đang nằm trong các doanh nghiệp Nhà nước (DNNN). Rõ ràng đầu tư Nhà nước phải nắm giữ thế chủ đạo chứ không thể trông chờ toàn bộ ở doanh nghiệp?
Vấn đề là Việt Nam phải thực hiện nguồn đầu tư từ Nhà nước như thế nào và tận dụng DNNN như thế nào? Không phải ngẫu nhiên trong 30 chương của TPP người ta dành hẳn 1 chương về DNNN, bất cứ một quốc gia nào cũng có DNNN, nhưng vấn đề là nó yêu cầu là nền kinh tế thị trường đó các DNNN được đối xử công khai và minh bạch, bình đẳng với các doanh nghiệp khác.
Nguồn lực nhà nước rất quan trọng trong đầu tư, ví dụ đơn giản như đối với ngành dệt may, Nhà nước có thể dùng nguồn vốn có được trong cổ phần hóa để đầu tư cho lĩnh vực dệt may thay vì hỗ trợ cho ngân sách để đạt kế hoạch. Chúng ta cần xây dựng nhà máy sợi để hưởng ưu đãi thuế khi xuất khẩu sản phẩm dệt may vào thị trường Mỹ. Mỗi nhà máy sợi cần đầu tư 200 – 300 triệu đô la, không nhiều doanh nghiệp tư nhân có tiềm lực đi vay để đầu tư nhà máy. Vai trò của Nhà nước phải đứng ra đầu tư, sau đó cổ phần hóa nhà máy đó cho các thành phần kinh tế khác để rút vốn ra đầu tư tiếp. Vấn đề ở đây là giám sát hiệu quả và chất lượng của dự án đầu tư công như thế nào?
Xin trân trọng cảm ơn ông!
từ ngày 18 – 19/12/2025
VCCI
từ 11/11/2025 đến 30/11/2025
VCCI