Đưa chăn nuôi bò thành ngành chăn nuôi chủ lực

15:07:43 | 1/3/2016

Triển vọng và một số giải pháp về thể chế, chính sách phát triển ngành chăn nuôi bò thành ngành chăn nuôi chủ lực tại Việt Nam

 

Ngành chăn nuôi bò nước ta có tiềm năng phát triển rất lớn do nhu cầu tiêu thụ thịt, sữa của người dân còn tăng cao, điều kiện tự nhiên, phong tục, tập quán, lao động có nhiều thuận lợi để ngành chăn nuôi bò phát triển.


Bò được nuôi khắp các vùng, miền trên đất nước. Chăn nuôi bò lấy thịt và sức kéo ở nước ta đã phát triển từ lâu đời. Chăn nuôi bò sữa tuy mới xuất hiện thế kỷ 20 nhưng đến đầu thế kỷ 21 đã trở thành một ngành kinh tế quan trọng. Chăn nuôi bò truyền thống có lợi thế so sánh với nhiều ngành chăn nuôi khác, do đặc tính dễ nuôi của bò và ưu thế tận dụng lao động, sản phẩm trồng trọt, cây cỏ ở các vùng sinh thái khác nhau…Vì vậy, bò được nhân dân, các cấp, các ngành quan tâm khuyến khích phát triển và đã thực sự là sinh kế của hàng triệu người dân Việt Nam góp phần xóa đói giảm nghèo cho hàng vạn hộ gia đình.



Đối với người Việt, bò được coi là con vật thân thiện, gắn bó với nông dân bởi nhiều lý do. Tuy nhiên, người Việt không kiêng kị bò, rất thích sử dụng thịt bò và đang có xu hướng sử dụng thịt bò, sản phẩm từ bò ngày càng tăng.


Nguồn cung thịt bò, sản phẩm khác từ sữa trong nước những năm gần đây chưa đáp ứng nhu cầu người tiêu dùng, do số lượng bò sụt giảm. Hiện nay đàn bò đang có xu hướng tăng nhẹ trở lại, năm 2014 đàn bò đạt 5.234,30 ngàn con tăng 1,5%, sản lượng thịt đạt 292,90 tấn tăng 2,63% so với năm 2013. Theo số liệu của Tổng cục thống kê (01/10/2015) đàn bò nước ta đạt 5,4 triệu con tăng 2% so với cùng kỳ năm 2014. Do nhu cầu thịt bò tăng cao, năm 2014, Việt Nam nhập khẩu 248.000 con bò thịt. Năm 2015, nhập khẩu trên 250.000 con (chưa kể nhập tiểu ngạch, trâu, sản phẩm từ thịt bò khác). Sản lượng thịt bò của Việt Nam năm 2014 ở mức 370 - 393 nghìn tấn, để đáp ứng đủ nhu cầu phải nhập khẩu từ 15- 40 nghìn tấn.


Theo Tổng cục Thống kê, năm 2014, nước ta có 227,625 ngàn con bò sữa. Đến năm 2015 tổng đàn bò sữa nước ta đạt 275,3 nghìn con, tăng 21% so với cùng kỳ năm 2014. Tốc độ tăng trưởng đàn bò sữa bình quân giai đoạn 2001- 2014 lên tới 22% năm. Sản lượng sữa tươi nguyên liệu năm 2014 đạt 549,533 ngàn tấn, tăng 20,41% so với năm 2013, đáp ứng nhu cầu sản xuất và tiêu dùng sữa nội địa năm 2014 là 28,3%. Hiện tại mỗi người Việt Nam tiêu thụ trung bình khoảng 15 lít sữa/năm, là mức rất thấp so với các nước trên thế giới. Việt Nam phải nhập khẩu với giá trị 1,1 tỷ USD sản phẩm và nguyên liệu sữa các loại trong năm 2015. Dự báo các năm tiếp theo Việt Nam vẫn phải nhập nguyên liệu sữa, với tốc độ nhập khẩu tăng trưởng bình quân 15%/năm. Việt Nam đứng trong nhóm 20 nước nhập khẩu sữa nhiều nhất trên thế giới. Dự kiến trong giai đoạn từ 2015 - 2025, sản lượng sữa tăng trung bình 10-15%/ năm. Nhưng Việt Nam vẫn thiếu hụt nguồn sữa nguyên liệu trong vòng 10 năm tới. Quy mô thị trường sữa Việt Nam tăng trưởng mạnh, tăng trưởng bình quân 21%/năm giai đoạn 2010-2015.

Sau 30 năm đổi mới, ngành chăn nuôi bò có nhiều chuyển biến, đang đứng trước một vận hội mới và chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi những yếu tố là:


Thứ nhất: Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã và đang tác động tích cực đến cơ cấu ngành. Được thể hiện ở cơ cấu vật nuôi thay đổi; sản xuất đã sát với tín hiệu thị trường; cơ cấu đầu tư, cơ cấu các thành phần kinh tế tham gia vào chuỗi sản xuất phong phú; cơ cấu chăn nuôi truyền thống giảm dần, đa dạng phương thức chăn nuôi mới; phân bổ nguồn lực có nhiều chuyển dịch và thay đổi tích cực làm quy mô và năng lực sản xuất của ngành ngày càng tăng mạnh. Tuy nhiên cũng còn không ít khó khăn, tồn tại, vướng mắc đan xen như năng suất, chất lượng sản phẩm thấp; năng suất lao động chưa cao; sản xuất manh mún, nhỏ lẻ còn chiếm trên 70%; công tác giống, thức ăn chăn nuôi còn nhiều phụ thuộc vào yếu tố nước ngoài; thị trường bị ép trên sân nhà; quy hoạch và tích tụ đất đai cho chăn nuôi còn nhiều bất cập; tín dụng va đầu tư cho chăn nuôi bò còn hạn chế…


Thứ hai: Biến đổi khí hậu tác động mạnh mẽ đến ngành, đã phát sinh những nhu cầu đầu tư mới về công nghệ, hạ tầng kỹ thuật để thích ứng và giảm thiểu ảnh hưởng của nhiệt độ tăng, của thảm họa thiên tai, bão lũ, sa mạc hóa, thời tiết cực đoan, dịch bệnh và cũng nảy sinh nhiều lĩnh vực, ngành sản xuất mới, ngành sản xuất hỗ trợ ngành chăn nuôi bò, chăn nuôi bò công nghiệp phát triển.


Thứ ba: Ngành chịu tác động mạnh mẽ, sâu sắc, toàn diện cả mặt tích cực, cơ hội và thách thức của quá trình toàn cầu hóa. Cụ thể là những tác động về thuế quan, chuyển dịch đầu tư, cạnh tranh trong tiêu thụ và tiêu chuẩn sản phẩm, về kiểm dịch và các quy định khác của các hiệp định FTA thế hệ mới mà Việt Nam đã, đang đàm phán, ký kết và thực thi. Ngành chăn nuôi nói chung và ngành chăn nuôi bò nói riêng chịu nhiều tác động, thậm chí bị tổn thương nhiều nhất khi Việt Nam thực thi TPP và các hiệp định FTA thế hệ mới nếu chúng ta không chủ động khéo léo tận dụng cơ hội, biến thách thức thành cơ hội, giảm thiểu tác động tiêu cực.


Để ngành chăn nuôi bò phát triển, trở thành một ngành chăn nuôi chủ lực trong thời kỳ mới, cần áp dụng đồng bộ các giải pháp về khoa học công nghệ, tổ chức sản xuất, phát triển thị trường, điều tiết sản xuất có hiệu quả…đồng thời với việc các chủ thể kinh tế nhậy bén thích ứng với tình hình và một số giải pháp về thể chế, chính sách sau:


1-    Sáng tạo, hoàn thiện thể chế, chính sách phù hợp bối cảnh mới


- Xây dựng, bổ sung, hoàn thiện luật pháp: Xây dựng những luật cơ bản, luật chuyên ngành về nông nghiệp, về chăn nuôi; những luật liên quan phát triển nông nghiệp, luật về khuyến khích phát triển các thành phần, chủ thể kinh tế (doanh nghiệp, hợp tác xã, trang trại, hộ gia đình) … phù hợp với thông lệ quốc tế và tình hình thực tiễn.


- Hoàn thiện, sửa đổi, bổ sung cơ chế, chính sách phù hợp với thực tiễn, tháo gỡ vướng mắc kịp thời để thực thi chính sách có hiệu quả, như: những chính sách hỗ trợ, khuyến khích đầu tư cho ngành chăn nuôi như đối với ngành công nghiệp trong đó có chăn nuôi bò; chính sách khuyến khích thành lập khu công nghiệp nông nghiệp; khu công nghiệp chăn nuôi với kết cấu hạ tầng cứng, hạ tầng mền đồng bộ; khuyến khích mô hình sản xuất chăn nuôi theo chuỗi liên kết toàn cầu; hỗ trợ tín dụng ưu đãi cho sản xuất thịt, sữa tiêu thụ nội địa; quyết liệt chống buôn lậu, nhập lậu sản phẩm chăn nuôi qua biên giới; chính sách tích tụ đất đai thuận lợi cho phát triển hạ tầng chăn nuôi, phát triển đồng cỏ và cây làm nguyên liệu thức ăn chăn nuôi.


- Xây dựng chính sách đồng bộ và cho từng loại hình, phương thức sản xuất phát huy ưu điểm, lợi thế của từng thành phần: Nhà nước cần có chính sách khuyến khích phát triển chăn nuôi chung và những chính sách phát triển chăn nuôi công nghiệp, chăn nuôi công nghệ cao song song với chính sách khuyến khích phát triển chăn nuôi trang trại, gia trại, tạo những sản phẩm đặc trưng, đặc sản, tận dụng và phát huy lợi thế vùng, miền, lao động trong cả nước. Khuyến khích sự liên kết, kết nối giữa các loại hình chăn nuôi, gắn kết sản xuất theo chuỗi nhằm giảm chi phí sản xuất và quản lý quy hoạch thuận lợi.


2- Chính sách nâng cao năng lực, hiệu quả quản lý nhà nước, quản trị ngành và của chủ thể kinh tế; nâng cao hiệu quả thực thi các chính sách; phát triển các tổ chức dịnh vụ sản xuất; phát huy vai trò hiệp hội ngành hàng


- Cần có quy hoạch các vùng chăn nuôi bò, quản lý quy hoạch có hiệu quả; quy hoạch quỹ đất phục vụ chăn nuôi, sản xuất cây làm thức ăn chăn nuôi bò; mở rộng diện tích, khuyến kích phát triển trồng cây nguyên liệu chăn nuôi.


- Nghiên cứu áp dụng sản xuất và điều tiết sản xuất theo hạn gạch, theo tín hiệu thị trường nhằm quản lý tốt định hướng và quy hoạch.


- Có chính sách nghiên cứu, lai tạo, bảo tồn giống bò có đặc tính năng suất, chất và thích nghi, chống chịu dịch bệnh cao; nhập khẩu giống tốt đem lại lợi ích và hiệu quả cao vào sản xuất; phát triển ngành sản xuất thức ăn chăn nuôi công nghiệp hiện đại, giá thành hạ, giảm phụ thuộc từ nước ngoài.


 - Chính sách nâng cao năng lực về thú y theo hướng kiểm soát tốt dịch bệnh, quản lý vận chuyển và kiểm soát giết mổ; xây dựng tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật về vệ sinh thú y, an toàn thực phẩm đáp ứng nhu cầu hội nhập quốc tế; đàm phán điều kiện kiểm dịch tạo điều kiện cho xúc tiến thương mại để xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu. Đầu tư nâng cao năng lực đáp ứng nhiệm vụ thời hội nhập và phòng chống dịch ở cơ sở làm nền tảng phát triển chăn nuôi và bảo vệ sức khỏe cộng đồng; phát triển ngành sản xuất vắc xin và thuốc thú y hiện đại đáp ứng nhu cầu trong nước.


- Nâng cao vị trí, vai trò của hiệp hội đối với ngành hàng. Nâng cao năng lực, vị thế của doanh nghiệp và các chủ thể trong nền kinh tế.


- Sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện cơ chế, chính sách khuyến khích nghiên cứu, ứng dụng, chuyển giao khoa học công nghệ để nhiều sản phẩm khoa học công nghệ trong nước và thế giới được ứng dụng đồng bộ vào các khâu trong chuỗi sản xuất của ngành chăn nuôi bò, nhất là công nghệ cao, công nghệ sinh học, thân thiện với môi trường.


3-  Chính sách đẩy mạnh hội nhập quốc tế: Chủ động hội nhập, tăng cường hợp tác quốc tế tận dụng tối đa nguồn lực từ bên ngoài về vốn, kỹ thuật, quản trị và thị trường. Tạo thuận lợi cho đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực chăn nuôi công nghệ cao, chế biến sản phẩm chăn nuôi và tiêu thụ sản phẩm ra thị trường quốc tế.


4- Đổi mới phương pháp ban hành chính sách: Lấy mục tiêu chính sách phục vụ cuộc sống, cộng đồng các chủ thể kinh tế và xã hội. Trong quá trình xây dựng chính sách cần được sự tham gia rộng rãi của các đối tượng thụ hưởng, các đối tượng có lợi ích liên quan; chính sách được ban hành phải đồng bộ, phù hợp với quy định quốc tế và có tính khả thi cao, đi vào cuộc sống.

Nguyễn Văn Tốn – Ban Kinh tế Trung ương